Thứ Tư, 28 tháng 1, 2009

Điểm non-fiction năm 2008

http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5910/index.aspx

Nhìn lại thị trường sách phi hư cấu năm 2008

Đã từng có thời, nói đến sách người ta liên tưởng tới truyện, tới tiểu thuyết văn học. Nhưng giờ đây, sách phi hư cấu về đủ loại chủ đề từ chính trị, kinh tế, kinh doanh, lịch sử, triết học… đã khá quen thuộc. . Đặc biệt năm 2008, rất nhiều tác giả phi hư cấu tên tuổi thuộc cả hai dòng thương mại và hàn lâm của phương Tây đã được Việt dịch.

Sách kinh doanh: năm hội tụ của các tên tuổi lớn

Sách kinh doanh có lẽ là mảng nở rộ nhất sau hội nhập. Năm 2008, một loạt các tác giả sách kinh doanh tên tuổi xuất hiện ở Việt Nam.

Trước nhất phải kể tới Peter Drucker, nhà triết học về quản trị số 1 của thế giới. Hai tác phẩm quan trọng của ông là Effective Executive và The Essential Drucker đã được NXB Trẻ và PACE dịch ra tiếng Việt với tựa đề Nhà quản trị thành công và Tinh hoa quản trị của Drucker. Đây là hai cuốn quan trọng trong trước tác hàng chục tác phẩm của nhà tư tưởng quá cố.

Trong cuốn Nhà quản trị thành công, Drucker đã đưa ra những khái niệm đơn giản nhưng then chốt của quản trị cá nhân. Muốn quản trị người khác trước hết phải quản trị chính mình sao cho làm việc hiệu quả. Hiệu quả theo Drucker lại độc lập với sự thông minh, kiến thức hay chăm chỉ. Trong cuốn sách này, Drucker lý giải rất sáng sủa những nguyên tắc để một nhân viên tri thức có thể làm việc hiệu quả hơn.

Cuốn Tinh hoa quản trị của Drucker rộng hơn, là tập hợp những tư tưởng tinh hoa nhất của Drucker về quản trị ở cả ba cấp độ: cá nhân, tổ chức và xã hội. Những khái niệm quan yếu định hình nên tên tuổi của Drucker như: “kinh doanh là tạo ra khách hàng”, “quản trị định hướng hiệu quả”, “quản trị như một chức năng xã hội”… đều được tổng hợp lại trong cuốn sách này. Drucker cho thấy một tầm tư duy thấu suốt về những vấn đề liên quan đến quản trị mà cuốn sách này là một minh chứng điển hình.

Cùng với Drucker, tác giả sách quản trị kinh doanh bán chạy nhất thế giới là Jim Collins đã được giới thiệu ở Việt Nam qua hai cuốn sách siêu bestseller trên toàn thế giới là Good to Great (từ Tốt tới Vĩ Đại) và Built to Last (Xây Dựng để Trường Tồn). Cả hai cuốn này cũng do NXB Trẻ và PACE giới thiệu. Đáng mừng là cả hai cuốn đều bán khá chạy và được giới quản trị kinh doanh Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

Giá trị của hai cuốn sách nằm ở chỗ nhóm tác giả đứng đầu là Collins đã tổng hợp những nghiên cứu thực tiễn trên một số lượng lớn các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được nghiên cứu đều có thành công lâu dài và vượt trội trên tương quan so sánh với những doanh nghiệp cùng ngành nghề.

Văn phong của cả hai cuốn đều hết sức hàm súc, lý giải gãy gọn, rõ ràng, đôi chỗ cuốn hút đặc biệt. Chủ các doanh nghiệp “khoái” mấy cuốn này cũng dễ hiểu khi qua đặc điểm thành công của các công ty hàng đầu, họ có dịp tự soi lại doanh nghiệp mình. Nhiều khái niệm đưa ra trong hai cuốn này thực sự hữu ích trong việc xây dựng tư duy chiến lược và quản trị chuyên nghiệp.

Thế nhưng, cả hai cuốn đều bị khá nhiều lời chỉ trích từ giới học giả trên thế giới. Thực tế cũng cho thấy, nhiều công ty trường tồn và vĩ đại được Jim Collins coi như hình mẫu đã suy thoái sau khi sách xuất bản. Cuốn sách phê phán Jim Collins hay nhất là The Halo Effect (Hiệu ứng hào quang) có thể sẽ sớm xuất hiện ở Việt Nam trong năm nay.

Một cuốn sách kinh doanh quan trọng khác là Focus (Chuyên biệt) đã được Alphabooks dịch và xuất bản trong năm nay. Tác giả Al Ries không còn xa lạ với người đọc Việt Nam nhưng cuốn sách quan trọng bậc nhất này của ông mới lần đầu được dịch đầu đủ ở Việt Nam. Lập luận của Al Ries vẫn như vậy, gần gũi, trong sáng và rất dễ hiểu. Tác giả thuyết phục người đọc bởi sự giản đơn của lập luận chứ không phải bằng hình thức màu mè.

Vào cuối năm, sự xuất hiện rầm rộ của cha đẻ lý thuyết cạnh tranh Micheal Porter đến Việt Nam làm cho hai cuốn sách dày cộp của ông là Competive Advantage (Lợi thế cạnh tranh) và The Competive Advantage of Nations (Lợi thế cạnh tranh quốc gia) bán khá chạy. Lý thuyết cạnh tranh của Porter có vai trò nhất định trong xác lập chiến lược của doanh nghiệp và quốc gia.

Nhưng những lập luận của Porter đã và đang tiếp tục bị không ít những lời chỉ trích từ các nhà kinh tế và giới nghiên cứu quản trị kinh doanh. Lý thuyết “năm lực đẩy” nổi tiếng cũng như nhiều lý giải khác của ông tỏ ra phức tạp, bị phê phán là thiếu cơ sở thực tiễn, chỉ đúng với một số tình huống chọn lọc chứ không đại diện cho toàn thể. Hơi khó để tìm ra những ý tưởng đơn giản nhưng đột phá từ khung tư duy của Porter.

Ngoài ra, một số tên tuổi khác như John Maxwell (chuyên gia về thuật lãnh đạo), Richard Koch (tác giả nguyên lý 80/20), Zig Ziglar (chuyên gia bán hàng) đều được giới thiệu ồ ạt trong năm nay và tạo ra được sức lan tỏa nhất định. Thị trường sách kinh doanh có vẻ như đã có một năm sôi động nhất xét về cả số lượng lẫn chất lượng tác phẩm.

Sách kinh tế: tiền đề cho năm 2009

So với lĩnh vực sách kinh doanh thì sách kinh tế ảm đảm hơn. Cũng dễ hiểu khi người ta thích đọc những gì có thể ứng dụng trực tiếp được như kinh doanh hơn là những vấn đề kinh tế vĩ mô xa xôi.

Năm 2008, một gương mặt khá quen thuộc là nhà kinh tế học Joseph Stiglitz được giới thiệu với 2 cuốn sách nổi tiếng của ông là Making Globlization Work (Vận hành toàn cầu hóa) và Globlization and its Discontents (Toàn cầu hóa và những mặt trái). Cả hai cuốn đều là những đúc kết của nhà kinh tế đoạt giải Nobel 2001 từ quãng thời gian 3 năm (1997-2000) làm phó chủ tịch ngân hàng Thế giới. Cuốn thứ nhất tập trung vào phê phán những khuyết tật của thể chế toàn cầu hóa hiện nay, cuốn thứ hai đề ra những phương hướng, giải pháp để hệ thống hiện nay hoạt động công bằng và chất lượng hơn. Cả hai cuốn đều bán rấtchạy trên thế giới nhưng đã không còn mới mẻ xét về cả tư tưởng lẫn thời gian. Tuy xuất hiện muộn ở Việt Nam, nhưng cả hai cuốn này đều là những tư liệu tham khảo quan trọng cho những ai nghiên cứu lĩnh vực kinh tế ở cấp độ toàn cầu.

Một cuốn sách khác cũng không còn mới (đã được xuất bản ở Mỹ vào giữa năm ngoái) nhưng mãi tới cuối năm nay mới được ra mắt ở Việt Nam là The Age of Turbulence (Kỷ nguyên hỗn loạn) của cựu chủ tịch FED Alan Greenspan. Cuốn này là một “di sản tri thức” trong suốt cuộc đời hoạt động thực tiễn và suy ngẫm về kinh tế học của Greenspan. Trong cuốn này, Greenspan khẳng định niềm tin gần như tuyệt đối vào lý thuyết thị trường tự do nhưng điều thú vị là cuốn sách vừa ra được một năm thì cuộc khủng hoảng tài chính ập về, thách thức những lý tưởng cả đời Greenspan đeo đuổi.

Cuốn sách kinh tế mới nhất và mang tính thời sự nhất trong năm vừa rồi là “Mô thức mới cho thị trường tài chính” của George Soros. Nghe danh Soros đã lâu nhưng lần này, người Việt mới được “gặp” ông trong một tác phẩm được Phương Nam Books dịch khá nhuần nhị. Đây lại là cuốn sách đầu tiên đề cập tới đề tài khủng hoảng tài chính đang hot nên được đón nhận rất nồng nhiệt. Cuốn này mô tả khá kỹ diễn trình và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay. Điểm đặc biệt là ở chỗ, Soros dù là nhà hoạt động thực tiễn nhưng lại tiếp cận tài chính từ góc độ “triết học”.

Một số tác giả được đã được giới thiệu từ năm ngoái nay lại có tác phẩm thứ hai tiếp tục được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Điển hình là học giả đoạt giải Pulizer Daniel Yergin với tác phẩm The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy). Năm nay, tác phẩm The Prize (Dầu mỏ - Tiền bạc và Quyền lực) của nhà lịch sử kinh tế này được Alphabooks giới thiệu. Cuốn sách “dày như cục gạch” này vẽ lại lịch sử kinh tế chính trị thế giới từ góc nhìn dầu mỏ. Ngập tràn những tình tiết và nhân vật như kiểu Tam Quốc Diễn Nghĩa, Yergin dẫn dắt người đọc vào một mê hồn trận của những cuộc xung đột bất tận giữa các thế lực tranh nhau nguồn tài nguyên dầu khí.

Một tác giả khác là John Perkins với tác phẩm gây tiếng vang Lời thú tội của một sát thủ kinh tế. Lần này, Perkins trở lại với cuốn Secret history of American Empire (Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ). Tựa sách thì khác nhưng luận điệu của sát thủ kinh tế “tự phong” John Perkins thì vẫn vậy: chống tập đoàn trị và toàn cầu hóa. Cuốn sách mang nhiều màu sắc kinh tế chính trị “vỉa hè” này nổi bật nhưng không có nhiều giá trị khách quan hay học thuật.

Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ vấn đang gây ảnh hưởng mạnh tới Việt Nam. Số lượng người quan tâm tới kinh tế tài chính sẽ tăng mạnh trong năm 2009. Vì vậy, có thể dự đoán số lượng sách kinh tế năm 2009 sẽ tăng. Đặc biệt những tác giả nổi danh có sách viết về cuộc khủng hoảng hiện nay như Nobel Kinh tế 2008 Paul Krugman chắc chắn sẽ sớm xuất hiện.

Sách chính trị: Điểm sáng Obama

Việc Obama được bầu làm tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ là sự kiện chính trị quan trọng bậc nhất. Giới làm sách Việt Nam đã theo kịp mạch thời sự với việc tung ra một số cuốn sách do Obama viết.

Nổi bật nhất là cuốn Audacity of Hope (Hi vọng táo bạo) của NXB Trẻ. Cuốn này được Obama viết khi còn là thượng nghĩ sỹ. Với bút pháp khá tao nhã và thấu suốt, tác giả đã phê phán nền chính trị đầy chia rẽ của nước Mỹ hiện đại. Bằng những từ ngữ đầy mỉa mai và tinh thần phản biện, Obama gây bất ngờ khi chỉ trích chính nền chính trị mà ông đang tham gia với tư cách một thượng nghị sỹ. Obama nói cuốn sách sẽ làm thất vọng nhiều người nhưng có lẽ sau cuốn này, nhiều người lại có cảm tình hơn với ông bởi óc phê phán, sự khách quan và những nỗ lực chân thành.

Một cuốn khác cũng do Obama viết là Dream from my father (Những giấc mơ từ cha tôi). Tuy nhiên, cuốn này được chuyển ngữ tồi tệ tới mức “đọc không hiểu gì”.

2008 là một năm kinh tế chứa đầy những biến động khó lường. Đầu năm lạm phát, cuối năm suy thoái, những đơn vị xuất bản sách gặp nhiều khó khăn do giá đầu vào tăng cao và sức cầu yếu đi. Thế nhưng, sách vẫn ra đều đều và cuộc chiến cạnh tranh để mua bản quyền những cuốn non-fiction bán chạy ngày càng quyết liệt.

Lĩnh vực xuất bản sách thực sự đã có những bước tiến lớn trong hai năm trở lại đây. Chỉ tiếc là, văn hóa đọc có vẻ như chưa tiến kịp theo bước tiến ấy.

Khánh Duy

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2009

Chú Obama




Obama sắp nhậm chức rồi. Lúc đầu tôi hok thích chú vì chú da đen. Tôi thích Hillary xinh đẹp hơn. Sau đọc sách chú, tôi thấy rất quý chú. Tôi viết bài điểm sách chú, chú phù hộ tôi nhé.

Chúc chú thành công mấy năm tới, đưa toàn Đảng (Dân chủ) toàn dân và toàn quân Hoa Kỳ tiến lên thế giới đại đồng.

http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5918/index.aspx

Chính trị Hoa Kỳ dưới góc nhìn Obama

“Trông anh cũng đàng hoàng. Sao anh lại muốn nhảy vào một lĩnh vực bẩn thỉu và hiểm ác như chính trị.” Nhiều người đã hỏi Obama câu đó khi ông mới chỉ tranh cử ghế Thượng nghị sỹ Mỹ. Trong cuốn sách nổi tiếng “Hy vọng táo bạo” của mình, bằng thứ ngôn ngữ phản biện mạnh mẽ, Obama đã làm cho nhiều người bất ngờ khi đề cập đến nền chính trị Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ là mô hình dân chủ tự do điển hình, nhiều quốc gia soi chiếu vào mô hình đó để đi tìm lý tưởng chính trị cho mình. Lý tưởng chính trị “tự do ngôn luận”, “tam quyền phân lập”, “kiểm soát và cân bằng”… của các nhà lập quốc Hoa Kỳ được coi như khuôn mẫu về dân chủ, đúc kết từ tinh hoa tư tưởng của những trí tuệ lớn từ thời cổ đại tới thời Khai sáng.

Obama, một chính trị gia Mỹ tốt nghiệp Havard, đương nhiên thấu hiểu sâu sắc lý tưởng chính trị đó. Nhưng trong cuốn sách “Hy vọng táo bạo” của mình, vị tổng thống mới được bầu đã đưa ra một góc nhìn về thực tế chính trị đang diễn ra ở Mỹ so với những những lý tưởng chính trị của các nhà lập quốc năm xưa.

Nghề chính trị

Chính trị ở Mỹ có thể coi là một nghề và đó không phải là cái nghề đầy quyền uy và hào nhoáng như người ta tưởng. Obama bằng trải nghiệp trực tiếp của bản thân đã mô tả cái nghề chính trị đó hiện nay bằng những từ ngữ đầy mỉa mai: “Chính trị là nghề kinh doanh chứ không phải sứ mạng, những thứ được gọi là tranh luận thực chất cũng chỉ hơn biểu diễn một chút.”

Chính trị gia không thể thắng cử nếu không vận động để được biết tới, giống như doanh nghiệp không thể bán được hàng nếu không quảng cáo vậy. Nhưng để tổ chức vận động thì anh phải có tiền, nếu giàu rồi thì anh tự bỏ tiền túi ra mà tranh cử, còn nếu không thì phải “đi xin người giàu” như Obama đã làm từ khi còn tranh cử ghế thượng nghĩ sỹ.

Đã đi “ăn xin” thì đương nhiên phải chấp nhận những lời chối từ, những người tham vọng trở thành chính trị gia phải chấp nhận dẹp qua cái sỹ diện của mình sang một bên. Obama đã vô cùng khó khăn khi phải làm điều đó. Ông kết luận rằng để vượt qua tất cả và trở thành thượng nghị sỹ Hoa Kỳ, một chính trị gia “đòi hỏi phải có chứng hoang tưởng tự đại nhất định” và chiến dịch tranh cử thì “khi điêu tàn, khi huy hoàng nhưng lúc nào cũng lố bịch.”

Phải có tiền hoặc đi xin tiền để thắng cử, đương nhiên, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nền chính trị cũng bị chi phối bởi đồng tiền. Thế cho nên, không ít những người cực đoan nói về những chính trị gia Mỹ như sau: “chúng đều là những con rối của các nhóm đặc quyền”, những “con buôn chính trị”.

Obama đã nỗ lực để không bị ảnh hưởng và chi phối bởi các nhóm lợi ích giàu có tài trợ cho hoạt động tranh cử của mình. Nhưng ông khá chân thành khi thừa nhận: “Hậu quả của hoạt động gây quỹ là tôi ngày càng giống những nhà tài trợ giàu có tôi gặp, nghĩa là dành nhiều thời gian cho thế giới đứng trên sự tranh chấp, bên ngoài sự đói khổ, thất vọng, sợ hãi, phi lý và khó khăn của 99% dân số, bạn di chuyển theo quỹ đạo khác với những người mà bạn đại diện. Khó khăn của người bình thường, tiếng nói từ những thị trấn thất nghiệp hay những khu trung tâm đang suy thoái chỉ còn là những tiếng vọng xa xôi.”

Nỗi lo sợ thất bại, ham muốn vươn tới “địa vị và quyền lực” đã khiến các chính trị gia đôi khi “đứng giữa vách đá cheo leo”, phải cân bằng giữa nhóm lợi ích và số đông quần chúng. Vì thế, không ít lần, họ trở thành những “chính trị gia hai mặt”, “vận động một kiểu, khi trúng của làm kiểu khác.” Và, quá trình lập pháp trở thành sản phẩm của “hàng trăm thỏa hiệp lớn nhỏ”.

Nền dân chủ lệch lạc và chia rẽ

Chính trị Hoa Kỳ, theo Obama, đang đứng trước: “sự chia rẽ lớn nhất kể từ sau Thế chiến hai”. Nền chính trị với hai đảng đối lập nhau là Dân chủ và Cộng hoà có nhiều ưu việt nhưng dường như đang trôi về những thái cực cực đoan nhất của nó. “Mọi vấn đề dù lớn hay nhỏ, đối nội hay đối ngoại, tất thẩy đều được quy thành phải lựa chọn quan điểm bên này hay bên kia, phản đối hay ủng hộ, rất ngắn gọn.”

Mô hình hai đảng cạnh tranh với nhau biến thái thành “công kích”, “lăng mạ” lẫn nhau. Không bên nào công nhận tính đúng đắn của bên kia cho dù trong thâm tâm họ nghĩ rằng bên kia cũng có một phần đúng. Kết quả là chính trị gia tự nhiên phải đi theo chủ nghĩa bảo thủ cực đoan hoặc chủ nghĩa tự do ngang bướng. “Chính trị như một cuộc đấu, không chỉ là giữa các quan điểm chính trị mà là giữa thiện và ác, hoặc anh ủng hộ hoặc anh chống đối, anh phải chọn một trong hai phía.”

Obama mô tả nền chính trị bằng một cụm từ rất hay là “loại sản phẩm đóng gói”. Mọi quan điểm từ thuế má tới nạo phá thai đều đã được hai Đảng “đóng gói” lại, khi cần tranh luận với Đảng kia thì chúng sẽ được “lôi ra khỏi giá”. Theo Obama, “các suy nghĩ giáo điều và tính đảng phái cứng nhắc đã khiến người Mỹ quay lưng lại với chính trị”, “đa phần mọi người giờ đây đều xem chính trị như một trò tiêu khiển, một môn thể thao trong đó các chính trị gia là các đấu sỹ bụng phệ, còn những người đang duy trì mối quan tâm tới họ là các cổ động viên mỗi bên.”

Nền dân chủ bị chia rẽ và lệch lạc như vậy đã khiến tất cả trở thành “màn kịch chính trị”. Cho dù đóng một vai trong “màn kịch” đó, nhưng nhiều trường hợp, Obama lại phê phán nó bằng những từ ngữ nặng nề như thể người ngoài cuộc: “Những ngôn từ bay bổng được sử dụng cho những mục đích phi đạo lý, những cảm xúc cao quý nhất có thể bị phá hoại vì quyền lực, thủ đoạn, sự tham lam và thiếu khoan dung. Những lợi ích hẹp hòi cạnh tranh đề giành ưu thế, những nhóm tư tưởng thiểu số cố gắng áp đặt suy nghĩ của họ về chân lý tuyệt đối.”

Mặt trái của tự do ngôn luận

Không chỉ nền chính trị trở nên cực đoan thái quá mà báo chí cũng cực đoan như vậy. Truyền thông là sân khấu để giới chính trị biểu diễn quan điểm và công kích lẫn nhau, mọi quan điểm đều được phóng đại trên truyền hình và mạng để tạo thành một “nền chính trị thô lỗ” theo lời Obama.

Trong quá trình tranh cử, các chính trị gia dùng hàng triệu đô la để tạo ra những “cơn bão quảng cáo đả kích”. Những chuyện vợ con, tình ái của đối thủ cũng được lôi lên báo chí để triệt hạ lẫn nhau. “Họ nói với nhau về những lời lăng mạ, buộc tội, những chuyện tầm phào và cạnh khoé suốt 24h một ngày, bẩy ngày một tuần.” Obama cho rằng những công kích thiếu lịch thiệp và xây dựng như vậy chỉ tạo ra “sự giận dữ, ngờ vực và bào mòn nghị lực” của chính trị gia và “xói mòn khả năng đánh giá sự thật” của quần chúng.

Mọi lời nói của cá nhân Obama và các chính trị gia khác đều bị săm soi và trích dẫn vô lối trên blog cá nhân, báo chí để bới móc và tạo ra mâu thuẫn. Tự do ngôn luận để khuyến khích nói thật nhưng đôi khi lại phản tác dụng, khi người ta biết rằng nếu nói thật sẽ rơi vào tâm bão chỉ trích. Obama kết luận khá bi quan: “Chính trị gia ngày nay hiểu điều đó. Ông ta có thể không nói dối, nhưng ông biết không có gì tốt đẹp dành cho những người nói thật.”

Tìm lại nền chính trị đồng thuận

Dường như, có một khoảng cách giữa nền dân chủ lý tưởng trên lý thuyết với thực tế chính trị hiện tại. Thậm chí, những nguyên tắc tạo nền móng vững chắc cho nền dân chủ Mỹ từ thời khai quốc dường như đang phải đối mặt với thách thức, khi những biến thái cực đoan của nó tạo ra sự lệch lạc trong hệ thống chính trị.

Obama kêu gọi một nền chính trị khác, một nền dân chủ đồng thuận với những giá trị gốc rễ từ năm 1776, “một nền chính trị chín chắn, cân bằng giữa lý tưởng và thực tế, để phân biệt được vấn đề gì có thể thoả hiệp được và vấn đề gì không thể, để thừa nhận rằng đôi khi phe đối lập cũng đúng”, một nền chính trị biết “sự khác biệt giữa tín điều và lẽ phải, giữa có trách nhiệm và vô trách nhiệm, giữa những điều sẽ tồn tại mãi mãi và những thứ chỉ lướt qua…”

“Bình thản và thấu suốt”, Obama với tư cách một thượng nghĩ sỹ đã phân tích những mặt trái của nền chính trị mà ông đang phục vụ. Giữa thời đại hỗn loạn của những giá trị bị thách thức này, những tiếng nói phản kháng đã được lắng nghe và đó có thể là một nguyên nhân khiến Obama được bầu làm tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ.

Nhưng từ những lời hô hào thay đổi tới hành động để thay đổi nền chính trị là một hành trình rất dài và khó khăn với Obama, chính Obama cũng phân vân: “Có thể chính trị đã bị tầm thường hóa tới mức không thể trở lại được như cũ…”

Người dân Mỹ và thế giới vấn đang chờ đợi hành trình tìm lại Giấc mơ Mỹ của Obama với “hi vọng táo bạo” như tên cuốn sách mà ông đã viết.

Khánh Duy

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2009

Kỷ nguyên hỗn loạn và niềm tin lung lạc của Greenspan




http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5756/index.aspx

Những niềm tin bị lung lạc của Alan Greenspan

Trong một cuộc điều trần gần đây trước Thương viện Mỹ về trách nhiệm của mình trước cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Alan Greenspan đã nói rằng ông “bị sốc vì mất niềm tin”. Greenspan đã tin vào điều gì để đến nỗi cuộc khủng hoảng hiện nay khiến niềm tin ấy lung lạc tới mức làm ông sốc? Câu trả lời có trong cuốn hồi ký “Kỷ nguyên hỗn loạn” của ông.

Cuốn hồi ký của Greenspan được chia làm 2 phần khá rõ rệt. Phần thứ nhất như một tự truyện, kể lại sự nghiệp của Greenspan trong đó quan trọng nhất là 18 năm trên ghế chủ tịch FED (1987-2006). Phần thứ hai là những quan niệm và đánh giá của ông về các vấn đề kinh tế chính trị nói chung ở nước Mỹ và thế giới.

Cuốn sách được Alan Greenspan viết sau khi rời nhiệm sở vào năm 2006 và xuất bản vào giữa năm 2007 ở Mỹ. Đó là thời điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính nên đương nhiên toàn bộ cuốn sách không đả động gì đến cuộc khủng hoảng hiện nay. Cũng mãi tới những ngày cuối của năm 2008, bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện ở Việt Nam. Nhưng không vì những lý do trên mà cuộc hồi ký mất đi tính thời sự của nó mà ngược lại, cuộc khủng hoảng lại khiến người đọc tò mò muốn nhìn lại di sản cũng như thế giới quan kinh tế của Greenspan, một thế giới quan mà không ít nhà phân tích cho là đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

Tín đồ của Adam Smith

Các thị trường dường như thích nghi tốt trong hàng giờ, hàng ngày như thể được điểu chỉnh bởi “bàn tay vô hình quốc tế”.

Rất nhiều lần trong cuốn sách, Greenspan nhắc tới “sư phụ” Adam Smith và bàn tay vô hình. Có thể coi Greenspan là môn đồ hay chính xác hơn là tín đồ của giáo phái thị trường tự do mà ông tổ là Adam Smith.

Mặc dù 19 năm ở vị trí điều tiết nền kinh tế bằng các công cụ tiền tệ, nhưng Greenspan không tin nhiều vào sự can thiệp của luật lệ, của nhà nước dưới nhiều hình thức. Ông khẳng định: “Bản chất của luật lệ là làm giảm tự do của thị trường, loại bỏ tự do chính là đặt toàn bộ quá trình cân bằng thị trường vào rủi ro”“không thấy bất kỳ lý do nào biện minh cho việc tăng vai trò của nhà nước.”

Thị trường tự do đã trở thành tín điều ăn sâu vào Greenspan và tạo ra khung tư duy của ông trong quá trình hoạch định chính sách. Trong quá khứ, chính Greenspan đã phản đối lời kêu gọi thắt chặt các luật lệ nhằm kiểm soát thị trường cho vay thế chấp dưới chuẩn, nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự đổ vỡ hàng loạt vừa qua.

Việc FED giảm lãi suất liên tục xuống mức thấp kỷ lục từ năm 2001 tới giữa năm 2004 đã tạo điều kiện hình thành bong bóng bất động sản khổng lồ. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo nhưng Greenspan thời đó đã gạt đi những quan ngại như vậy. Trong cuốn sách, Greenspan khẳng định: “Tôi sẽ nói với các độc giả rằng chúng ta không phải đối mặt với một chiếc bong bóng khổng lồ mà chỉ là những bọt nhỏ, vô vàn những chiếc bong bóng bé xíu ở cấp độ địa phương và không bao giờ phồng to tới mức đe dọa thể trạng chung của nền kinh tế.” Sự thật là Greenspan đã sai, bong bóng đã phình đại và nổ tan tành chứ không phải chỉ là “những bọt nhỏ”.

Khi đề cập đến nguy cơ từ công cụ tài chính mới CDS (trao đổi nợ tín dụng), công cụ giúp chuyển rủi ro tín dụng cho một bên thứ ba, Greenspan viết “Không một tổ chức cho vay lớn nào vì thế mà bị khó khăn. Họ có dư khả năng chịu được cú đấm. Sự vỡ nợ hàng loạt của thời kỳ trước đã không tái diễn.” Thực tế sau đó đã diễn ra ngược lại, các tổ chức cho vay lớn phá sản hàng loạt, những công cụ kiểu CDS như chất xúc tác khiến quá trình đổ vỡ lan rộng tới mức không kiểm soát nổi.

Với Greenspan, tư tưởng thị trường tự do đã trở thành một ý thức hệ. Khi được hỏi trước thượng viện rằng có phải ý thức hệ đó đã đẩy ông tới những quyết định chính sách sai lầm mà giờ nếu có thể ông muốn thay đổi, Greenspan đã phải thừa nhận rằng:

“Vâng, tôi đã thấy những sai lầm. Tôi rất buồn vì thực tế đó.”

Phá hủy không.. sáng tạo

Ngoài Adam Smith, Alan Greenspan còn bị ảnh hưởng bởi hai “sư phụ” khác là nhà kinh tế học Joseph Schumpeter và nhà triết học John Locke.

Schumpeter nổi tiếng với quan điểm “sự phá hủy mang tính sáng tạo”. Quan điểm này cho rằng trong một thị trường tự do, áp lực cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi công nghệ, sản phẩm... Những cái lỗi thời liên tục bị phá hủy nhưng đó là sự phá hủy mang tính sáng tạo, sự phá hủy mang tới sự tiến bộ chứ không phải hủy diệt. Tính ưu việt của thị trường tự do cạnh tranh là bởi những sự phá hủy mang tính sáng tạo như vậy.

Cuộc khủng hoảng hiện nay quả thật đã phá hủy nhưng không thấy sáng tạo đâu. Đổ vỡ thì nhiều thậm chí quá nhiều nhưng không có sáng tạo nào nảy sinh ra cả. Tính ưu việt của thị trường cạnh tranh đã bị thách thức nghiêm trọng trước những tan vỡ dây chuyền ở phố Wall.

Greenspan cũng rất mến mộ John Locke, một triết gia người Anh ở thế kỷ 17. Nhà triết học này đã đóng góp cho kỷ nguyên Ánh sáng bằng cách khơi dậy một loạt những nguyên tắc tự do, đặc biệt là tự do sở hữu. Ông này đã viết rằng: con người từ trong bản chất có một sức mạnh để đảm bảo “quyền sống, quyền tự do và tài sản, chống lại bất kỳ một hành vi xâm phạm hay âm mưu xâm phạm nào của người khác.”

Khá vui là trong cuốn sách này, Greenspan dùng tư tưởng thượng tôn sở hữu của John Lock để biện minh cho việc nới rộng các điều kiện cho vay mua nhà của Mỹ. Greenspan viết: “Tôi hiểu rằng nới rộng điều kiện cầm cố tín dụng cho những người vay thứ cấp sẽ làm tăng rủi ro tài chính, sáng kiến sở hữu nhà kiểu bao cấp như vậy đang bóp méo hoạt động và kết quả thị trường. Nhưng tôi tin tưởng rằng lợi ích của việc mở rộng quyền sở hữu nhà là đáng để mạo hiểm. Bảo vệ quyền sở hữu là nhân tố cực kỳ quan trọng của kinh tế thị trường, đòi hỏi thật nhiều người có quyền sở hữu đó để duy trì sự hậu thuẫn chính trị.”

Sự thật là năm 2006, gần 69% các gia đình Mỹ sở hữu nhà riêng, so với mức 64% năm 1994 và 44% năm 1940. Nhiều người có nhà hơn thật nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa nhiều khi nhà cửa được mua bằng những khoản vay dưới chuẩn. Bong bóng nhà cửa bùng vỡ tan nát đã làm lộ rõ tính bất hợp lý trong những lập luận trên của Greenspan.

Bất định và hỗn loạn

“Vai trò của FED là cất bình rượu punch đi ngay khi bữa tiệc bắt đầu sôi động.”

Người ta thường nói như vậy về vai trò của FED. Bất kỳ khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng nóng, Greenspan phải sử dụng ngay tới “thanh bảo kiếm” của mình là lãi suất để triệt giảm nguy cơ tăng giá. Nhưng lần này thì có vẻ như bữa tiệc đã sôi động quá mà bình rượu punch vẫn chưa được cất đi.

Vậy nên, gần đây, Greenspan đã không thoái thác mà thừa nhận rằng ông đã “sai một phần”. Dành cả cuộc đời để nghiên cứu và suy ngẫm về kinh tế học, nhưng đến thời điểm này, nhà kinh tế học lỗi lạc bỗng cay đắng phát biểu: “Trụ cột quan trọng của cạnh tranh và thị trường tự do đã đổ vỡ. Tôi cũng chưa hiểu rõ toàn bộ sự việc xảy ra như thế nào.” “Cơn sóng thần thế kỷ”, cách gọi của Greenspan về cuộc khủng hoảng hiện nay, là “quá sức tưởng tượng của ông.”

Greenspan đặt tên cuốn sách của mình là “Kỷ nguyên hỗn loạn”. Kỷ nguyên ông đã trải qua thực sự là một giai đoạn kinh tế thăng trầm với không ít những lần khủng hoảng và suy thoái. Nhưng tiếc là, Greenspan đã “rửa tay gác kiếm” trước khi giai đoạn hỗn loạn nhất trong cái kỷ nguyên hỗn loạn ấy bắt đầu.

Nếu như Greenspan tại nhiệm thêm 2 năm nữa, thì cuốn sách có thể đã được viết rất khác đi, có thể sẽ không còn những lập luận chắc nịch về lý tưởng thị trường tự do cạnh tranh như Greenspan đã viết. Dẫu sao, cuốn sách đồ sộ này vẫn cho thấy, Greenspan là một nhà hoạt động thực tiễn dày dặn kinh nghiệm và là một trí tuệ lớn trong thời đại “hỗn loạn” của ông.

Sát thủ kinh tế "kể tội" đế chế Hoa Kỳ




http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5519/index.aspx

Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ

Sau cuốn sách gây chấn động “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế”, John Perkins trở lại với một cuốn sách mới “Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ”. Tựa sách dễ làm những người chưa từng đọc Perkins nhầm tưởng đó là một cuốn sách lịch sử chính trị khô khan, nhưng ngược lại, Perkins vẫn viết theo cách của ông: một dạng tự truyện chính trị kinh tế mang nhiều màu sắc bí ẩn của tiểu thuyết trinh thám…

“Chính trị vỉa hè”

“Có tin đồn rằng George W. Bush đã bị quay lén khi đang sử dụng cocain và có hành vi quan hệ tình dục bất chính trong thời gian cha anh ta làm tổng thống.”

Thế rồi, nhà lãnh đạo Panama lúc đó là Noriega đã “sử dụng những bức ảnh đồi truỵ của Bush con và người tình để thuyết phục Bush cha (khi đó đang là tổng thống) đứng về phía chính quyền Panama trong những vấn đề chủ chốt. Để trả đũa, Mỹ mang quân xâm lược Panama và đẩy Noriega vào nhà tù Miami.”

Sự kiện Mỹ tấn công Panama năm 1989 được giải thích như vậy trong “Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ.” Không ai ngạc nhiên khi sách của John Perkins bán chạy. Ông biết cách viết, biết cách thắt nút và mở nút, biết đưa vào trong câu chuyện những tình tiết “vỉa hè” để một cuốn sách chính trị trở nên sống động, hấp dẫn.

Nếu như “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế” (viết tắt là Lời thú tội) được viết như một tự truyện theo mạch thời gian tuyến tính, “Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ” (viết tắt là Bí sử) là một kiểu tự truyện được viết theo mạch không gian phi tuyến tính.

Cuốn sách đầu tiên của Perkins kể lại tuần tự cuộc đời “sát thủ kinh tế” của ông, từ khi “bán linh hồn cho quỷ” để gia nhập đội ngũ “sát thủ kinh tế” đến khi ngộ ra “tội lỗi”. Cuốn sách thứ hai này chỉ như những ghi chép có ý thức của Perkins khi đi qua rất nhiều quốc gia và lục địa khác nhau. Từ Châu Á, Châu Mỹ Latinh rồi tới Châu Phi, đi đến đâu, Perkins cũng viết ra những trải nghiệm của mình và những người khác. trong quá trình nhận ra bản chất thật sự của “đế chế Hoa Kỳ”.

Có khác nhau về cách kể chuyện, nhưng ý tưởng và thông điệp thì vẫn thế. Có thể coi “Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ” là phần tiếp theo của “bản tuyên ngôn” chống đế chế Mỹ nói riêng và toàn cầu hóa nói chung.

Những con bò cái bị vắt sữa

“Con bò cái mà chúng ta có thể vắt sữa cho tới khi về hưu”

Trong Lời thú tội, phó chủ tịch MAIN, một công ty tư vấn của Mỹ, đã nói như vậy khi nhắc tới Ảrập Xêút. Mà không chỉ đất nước này, toàn bộ các quốc gia đang phát trển theo Perkins đều là những con bò cái để nước Mỹ và tập đoàn đa quốc gia của họ “vắt sữa”.

Hai cuốn sách của Perkins đều tập trung mô tả những âm mưu, quá trình và thủ đoạn “vắt sữa” của đế chế Mỹ. Âm mưu được thực hiện theo một tiến trình tuần tự với nhiều thủ đoạn. Núp dưới danh nghĩa xóa đói giảm nghèo, tập đoàn trị Mỹ (một liên minh giữa chính phủ, các ngân hàng và tập đoàn lớn) tìm mọi cách “viện trợ”, “cho vay” để giúp các nước nghèo phát triển.

Qua những công ty tư vấn như MAIN (công ty mà Perkins từng làm việc), các sát thủ kinh tế “vẽ” ra những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng… cho các nước nghèo và hào phóng cho họ vay tiền để thực hiện những kế hoạch đó. Thực chất, các kế hoạch đã được sát thủ kinh tế “thổi phồng” và “phóng đại” hơn nhiều so với thực chất. Mục tiêu là để các nước khác phải vay thật nhiều và ngập trong nợ nần. Cho tới khi đó, nước Mỹ sẽ nắm quyền kiểm soát, ép các quốc gia đó phải trả nợ bằng nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ của họ.

Tài nguyên bị vắt kiệt để trả nợ chứ không phải đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục, y tế đã đẩy dân nghèo ở các nước đang phát triển vào tình trạng bần cũng hóa. Đó là “cái nôi” nuôi dưỡng những kẻ khủng bố nước Mỹ mà sự kiện 11/9 là một ví dụ. Môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng bởi các tập đoàn tranh nhau khai thác vô tội vạ tài nguyên, khiến trái đất đứng trước những hiểm hoạ khôn lường.

Cuộc thập tự chinh mới của một đế quốc mới

Theo Perkins thì những định chế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chỉ là những con bài để nước Mỹ sử dụng nhằm ép các nước nghèo đi theo quỹ đạo của họ. Đó là một cuộc Thập tự chinh mới, không phải bằng quân sự mà bằng kinh tế, không phải bằng những chiến binh giáo mác trên tay mà bằng những sát thủ kinh tế với các bản báo cáo giả tạo được “vẽ vời” cho ra vẻ khoa học. Mục tiêu là mở rộng đế chế Mỹ trên phạm vi toàn cầu để phục vụ cho lợi ích của một thiểu số những quan chức cấp cao và chủ những tập đoàn lớn.

Nhưng theo Perkins, thủ đoạn của đế chế Mỹ còn kinh khủng hơn thế. Khi những quốc gia đang phát triển bất tuân theo sự điều khiển của Mỹ, “lũ chó săn bắt đầu sử dụng đến những chiếc gậy bóng chầy và cuối cùng là súng.” Những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chống lại sự “bóc lột” của tập đoàn Mỹ sẽ bị mua chuộc bởi các sát thủ kinh tế. Nếu các sát thủ kinh tế thất bại, những sát thủ thật sự của CIA sẽ vào cuộc. Cái chết của tổng thống Ecuador Jaime Roldos, tổng thống Panama Omar Torrijos và hàng loạt cái tên khác Arbenz, Mossadegh, Allende… đều có bàn tay vấy máu của CIA.

Gần đây nhất là cuộc chiến tranh Iraq để lật đổ nhà độc tài chống Mỹ Saddam Hussein dưới chiêu bài “chống khủng bố”. Theo Perkins, thực chất của tất cả những mỹ từ như “dân chủ”, “nhân quyền”, “chống khủng bố” chỉ là lớp áo che đậy cho âm mưu thật sự của Mỹ nhằm tước đoạt nguồn dầu mỏ, khoáng sản và khuynh loát thị trường của những quốc gia nghèo.

Trong Bí sử, Perkins đã định nghĩa “đế quốc” là một dân tộc thống trị dân tộc khác với 7 đặc điểm cơ bản và theo đó thì nước Mỹ hiện nay có cả bảy đặc điểm của một “đế quốc”. Tưởng như thời đại của chủ nghĩa đế quốc đã qua rồi nhưng thực chất, một hệ thống đế quốc mới đang được dựng nên, tinh vi và hiệu quả nhất mà thế giới từng thấy.

Tấn công vào “trái tim nhỏ máu của vua chúa”

Hai cuốn sách của Perkins như những bản cáo trạng đanh thép chống lại đế chế Mỹ mà đứng đằng sau nó là những tập đoàn lớn. Đọc Perkins để thấu hiểu những lý lẽ của phe chống toàn cầu hóa, thấu hiểu tại sao nhiều người dân ở Châu Mỹ Latinh và các quốc gia Trung Đông lại căm ghét nước Mỹ đến như vậy.

Perkins khiến người đọc phải nhìn lại tất cả những quan niệm cũ về ODA, FDI, WB, IMF… Tất cả những khoản vay “ưu đãi” được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng lại trở về túi chính những công ty trúng thầu là các tập đoàn của các nước cho vay. Cuối cùng, chỉ có các nước nghèo lâm vào cảnh nợ nần bởi những khoản vay khổng lồ dùng để tài trợ cho những dự án “bánh vẽ”.

Tuy nhiên, nhìn đi cũng phải nhìn lại. Perkins có lẽ đã đi quá đà khi sử dụng thứ ngôn ngữ nặng nề nhất để chỉ trích không tiếc lời đế chế Mỹ, các tập đoàn Mỹ và tiến trình toàn cầu hóa. Không thấy có đoạn nào ông nhắc tới những giá trị mà nó đã tạo ra. Không thấy Perkins nói về những lợi ích to lớn của toàn cầu hóa, những đóng góp vĩ đại của các tập đoàn trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm, cải tiến mẫu mã, giảm giá thành…

Tất cả tội lỗi từ sự huỷ hoại của môi trường tới sự nghèo khổ của người dân các nước đang phát triển đều bị đổ vấy lên đầu các tập đoàn lớn, các nước giàu. Đọc Perkins dễ làm nhiều người bị kích động đi theo một quan điểm nguy hiểm: nghèo đói là vinh quang, giàu sang là tội lỗi, người nghèo vẫn cứ nghèo bởi bọn nhà giàu ăn cướp của họ. Lịch sử những cuộc cải cách ruộng đất, cách mạng văn hóa, quốc hữu hóa công nghiệp ở nhiều quốc gia đã chứng minh rằng quan điểm đó chỉ dẫn tới thảm họa.

May thay, phần kết của “Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ” đã mở ra một bầu trời tươi sáng hơn. Perkins đề xuất ra những biện pháp đấu tranh để “thay đổi chính bản thân các tập đoàn”, khiến những tập đoàn lớn phải thực hiện những chính sách vì con người, vì môi trường và vì cộng đồng nhiều hơn.

Mỗi người phải có ý thức trong hành xử và tiêu dùng, phải ảnh hưởng tới những người khác, thuyết phục tập đoàn trị thay đổi chính sách của họ để biến “chủ nghĩa tư bản đế quốc thành chủ nghĩa tư bản dân chủ.”

“Ngay cả vua chúa cũng là con người. Trái tim họ cũng có thể tan vỡ, chúng nhỏ máu. Họ có thể bị thuyết phục…” Thông điệp trong những trang cuối của cuốn sách đã mở ra những giải pháp tích cực để “chúng ta cùng chung tay đổi thay thế giới” như lời kêu gọi của Perkins.

Khánh Duy