Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2009

Những ngộ nhận về sức mạnh mềm



Stalin từng hỏi mỉa mai: “Liệu Giáo hoàng có bao nhiêu binh đoàn? Chúa chỉ đứng về phe của những binh đoàn lớn mạnh mà thôi.” Stalin đã ngộ nhận về ảnh hưởng to lớn của “sức mạnh mềm”.

Stalin hỏi câu hỏi ấy trong thế chiến II khi nghe nói rằng Giáo hoàng thời đó chống lại các chính sách của ông. Lịch sử nửa thế kỷ sau đã chứng minh Stalin đã sai, dù không có trong tay một binh sỹ, Giáo hoàng John Paul II người Ba Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự sụp đổ của chế độ xã hội kiểu Stalin ở Ba Lan. Mô hình Stalin sụp đổ ở Nga và các nước Đông Âu nhưng nhà thờ Thiên chúa giáo vẫn thịnh trị.

Không chỉ Stalin, rất nhiều chính trị gia và học giả trên thế giới từng không coi trọng ảnh hưởng của sức mạnh mềm cho tới khi GS Joseph Nye khơi nguồn và hệ thống hóa lý thuyết này trong cuốn sách “Sức mạnh mềm – các phương thức để thành công trong chính trị quốc tế.”

Cuốn sách đã không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng mà còn làm sáng tỏ nhiều ngộ nhận khác về sức mạnh mềm và ảnh hưởng của nó.

Ảnh hưởng bằng “sức mạnh mềm” là “âm mưu” của phương Tây

Chiến tranh lạnh kết thúc với sự tự chuyển đổi của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sang mô hình tư bản chủ nghĩa Tây Âu. Nhiều ý kiến cho rằng phương Tây đã dùng những “thủ đoạn” và “âm mưu thâm độc” để truyền bá văn hóa và tư tưởng tự do của họ khiến Đông Âu sụp đổ. Và đến giờ, Mỹ vẫn tiếp tục những âm mưu “diễn biến hòa bình” như vậy với những quốc gia còn chưa đi vào quỹ đạo của Hoa Kỳ.

Sự thực là Mỹ có nhiều “sức mạnh mềm” từ phim Hollywood, văn hóa pop, giải Nobel, nền giáo dục, hệ giá trị tự do, dân chủ… Sức mạnh đó có sức hấp dẫn đặc biệt và là một nguyên nhân khiến các nước khác tự chuyển đổi để hướng về.

GS Nye viết: “Trước khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, nó đã bị xuyên thủng bởi truyền hình và phim ảnh. Những người cầm búa và đẩy xe ủi đã không làm thế nếu trong nhiều năm trước, họ không bị ảnh hưởng mạnh bởi những hình ảnh về một nền văn hóa đại chúng phương Tây.”

Tuy vậy, không phải tất cả đều là ý đồ của chính quyền phương Tây, ngược lại, rất nhiều nguồn lực quan trọng của sức mạnh mềm “hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ, và ảnh hưởng của chúng phụ thuộc nhiều vào sự chấp nhận của đối tượng.”

Ví dụ nền văn hóa nhạc pop của Mỹ mang đậm phong cách “tự do, cởi mở, năng động, cá nhân, đa dạng…” ảnh hưởng mạnh đến tâm lý giới trẻ toàn thế giới. Hay những bộ phim Hollywood trong đó nhân vật viện đến luật sư để bảo vệ quyền lợi “có thể hiệu quả hơn nhiều so với những diễn văn của Đại sứ Mỹ về tầm quan trọng của pháp quyền.”

Tuy vậy, chính phủ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát nhạc pop hay phim Hollywood. Sự phát triển của chúng là tự thân, và người dân các quốc gia khác cũng chấp thuận chúng một cách tự nguyện. Đó là sức hấp dẫn tự nhiên của những hệ tư tưởng hợp lý.

“Sức mạnh mềm” của nước Mỹ là “giả tạo”

Nước Mỹ trong nhiều giai đoạn lịch sử đã tự phá hủy “sức mạnh mềm” của mình. Những giá trị Mỹ như tự do, dân chủ, nhân quyền, cởi mở… bị coi là những lời rao giảng giả tạo khi chính quyền Mỹ tham chiến ở Việt Nam, xâm lược Irak, đánh Afghanistan, xây dựng nhà tù Abu Ghraib…

GS Nye chỉ rõ ranh giới cần thiết để có những nhìn nhận hợp lý. Theo ông, sức mạnh mềm của một quốc gia là sự hợp nhất của ba thành tố: văn hóa, hệ giá trị và những chính sách.

Những động thái bào mòn sức mạnh mềm của Mỹ như trên chủ yếu xuất phát từ những chính sách sai lầm của chính quyền Mỹ trong mỗi giai đoạn. Nước Mỹ phải tự chuộc lỗi và lấy lại hình ảnh của mình bằng những chính sách mới. Nhưng không vì thế mà nhầm lẫn giữa chính sách và hai yếu tố còn lại là văn hóa và hệ giá trị.

GS Nye viết: “Trong thập kỷ 70, thời chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ đã tự đánh mất sức hấp dẫn của mình ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng qua thời gian với những chính sách thay đổi, Hoa Kỳ đã tìm được cách hồi phục lại được sức mạnh mềm. Điều đó có thể lập lại trong giai đoạn này.”

Chính sách luôn thay đổi nhưng hệ giá trị Mỹ là trường tồn và văn hóa nước Mỹ có những điểm hấp dẫn đặc biệt với các quốc gia khác. Không phải ngẫu nhiên khi chủ tịch Hồ Chí Minh đưa những giá trị độc lập, tự do của các nhà sáng lập ra nước Mỹ vào vào bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của Việt Nam.

Chủ tịch Triều Tiên Kim Jung il chắc chắn không thích chính sách của Mỹ nhưng ông lại là một người nghiện phim Hollywood. Vì thế, không thể và không nên vì những chính sách “ông lớn” của chính quyền Mỹ mà phủ nhận toàn bộ những giá trị trong tư tưởng và văn hóa Mỹ.

“Sức mạnh mềm” không hiệu quả do khác biệt văn hóa

Một ngộ nhận khá phổ biến khác là không thể du nhập những giá trị “mềm” từ phương Tây do sự khác biệt và không đồng nhất về lịch sử hay văn hóa.

GS Nye thừa nhận nếu văn hóa có nhiều tương đồng thì sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau bằng sức mạnh mềm sẽ dễ dàng hơn. Ví dụ, sự khác biệt giữa Mỹ và Châu Âu chắc chắn ít hơn nhiều so với giữa Mỹ và các nước Trung Đông. Châu Âu sẽ dễ tiếp nhận giá trị “mềm” từ Mỹ hơn Trung Đông.

Tuy vậy, GS Nye viết: “Mặt khác, sự khác biệt văn hóa không ngăn chặn dân chủ bén rễ ở Nhật Bản và Hàn Quốc, cho dù với Hàn Quốc phải chậm hơn bốn thập kỷ. Dân chủ cũng thành công ở những quốc gia Hồi giáo như Thổ Nhĩ Kỳ hay Bangladesh. Rào cản văn hóa không cao tới mức không thể vượt qua nổi.”

Trong sáng, đơn giản và lôi cuốn là đặc trưng trong cách lập luận của GS Joseph Nye. Ông đã giúp người đọc xóa bỏ bức màn ngộ nhận về tầm ảnh hưởng của sức mạnh mềm.

Cho tới nay, tính hợp lý trong học thuyết của GS Joseph Nye vẫn chưa bị thách thức. Chỉ có điều, không ít người đã tự hỏi liệu “sức mạnh mềm” của Nye có ngược với nhà tư tưởng chính trị lừng danh thời Phục hưng Machiavelli. Ông này luôn coi trọng “sức mạnh cứng” của đấng quân vương và cho rằng bậc quân vương tốt hơn hết là nên làm cho người khác sợ hơn là làm cho họ yêu.

Joseph Nye đã đáp lại thật hóm hỉnh ngộ nhận ấy trong một bài báo trên tờ The South China Morning Post năm 2008: “Nhưng chúng ta thi thoảng đã quên mất rằng đối lập với yêu không phải là sợ mà là ghét. Machiavelli cũng đã nói rõ rằng bị ghét là điều mà đấng quân vương nào cũng nên tránh…”

Khánh Duy

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2009

Bài học “thật” từ “ảo mộng Lehman Brothers”



Đế chế Lehman Brothers đã đổ sụp vì những người cầm đầu “phù phiếm” và “đần độn”. Tác giả Lawrence G.McDonald kết luận như vậy trong cuốn sách mới được NXB Trẻ cho ra mắt tại Việt Nam có tên: “Ảo mộng Lehman Brothers”

Kết luận trên của Mc Donald là khá sốc và mới so với những gì đa phần công chúng đã biết. Sự sụp đổ của Lehman đã cũ nhưng những gì tác giả viết có lại nhiều điểm mới.

Cũ…

Thứ Hai, ngày 15 tháng 9 năm 2008, ngân hàng đầu tư 158 tuổi Lehman Brothers đã chính thức tuyên bố phá sản, một dấu mốc kinh hoàng trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính 2008. Đó là câu chuyện đã cũ.

“Lehman đã phá sản vì khoản thua lỗ 660 tỉ đôla và đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử thế giới.”

Nguyên nhân vụ phá sản ấy của Lehman cũng tương tự như nguyên nhân của toàn bộ cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Căn nguyên đó đã được các học giả, nhà báo “đào đi, xới lại” trên các mặt báo và sách vở quá nhiều.

Tuy vậy, Mc Donald cũng không thể không nhắc lại cơn cuồng bất động sản và chứng khoán dựa trên tài khoản vay thế chấp đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng ấy.

“Tổng giá trị của tất cả các chứng khoán dựa trên tài khoản vay thế chấp được phát hành từ năm 2001 đến 2006 lên tới 13,4 nghìn tỉ đôla. Nếu bạn chuyển đổi tất cả thành những tờ 1 đôla, chồng tiền có thể cao tới tận mặt trăng. 13,4 nghìn tỉ là số tiền mặt cực lớn đủ để rải kín bề mặt trái đất.”

Độ lớn khủng khiếp của số tiền “ảo” lý giải tại sao tác giả gọi nền tài chính ở phố Wall giai đoạn ấy là “một nhà thương điên”.

Những điều đó đều không mới đối với những ai quan tâm tới cuộc khủng hoảng năm 2008. Điểm mới ở đây là: Mc Donald cho biết “nhà thương điên” ấy do những ông hoàng “mất trí” nắm quyền.

Mới…

Mc Donald đã kể một câu chuyện mang nhiều tính chất cá nhân và nội bộ trong ngân hàng Lehman vào giai đoạn trước khủng hoảng. Ông là “người trong chăn” bởi khi ấy là phó giám đốc phụ trách bộ phận giao dịch nợ rủi ro về các chứng khoán có thể chuyển đổi ở Lehman.

Câu chuyện tác giả kể mới mẻ ở chỗ ngân hàng Lehman hiện lên như một vương quốc với hai ông hoàng xa hoa, độc tài và dốt nát. Đó là tổng giám đốc Richard Fuld và chủ tịch hội đồng quản trị Joe Gregory.

“Họ đã biến Lehman Brothers thành một vương quốc với đủ lệ bộ tôn ti trật tự. Vua Richard cai trị từ văn phòng lát gỗ lộng lẫy như một cung điện với phòng họp cá nhân của ông ta và cả phòng tắm riêng.”

Hai ông hoàng này “cai trị tòa nhà với quyền lực tuyệt đối và không bị thách thức bởi những lời khuyên.”

Mặc cho những “trung thần” là những bộ óc tài chính xuất sắc nhất phố Wall là Mike Gelband, Alex Kirk và Larry McCarthy hết lời can gián, hai ông chủ vẫn lao như “thiêu thân” vào các cuộc chơi đầu tư bất động sản và chứng khoán dựa trên thế chấp.

Những nhà tài chính kiệt xuất trên của Lehman đã tiên đoán trước sự sụp đổ của “lâu đài cát” tài chính từ năm 2005: “Thị trường nhà đất này chỉ chơi doping thôi.”

Nhưng, mọi cảnh báo đều được lắng nghe một cách thờ ơ rồi cuối cùng bị phớt lờ bởi hai ông hoàng và các “nịnh thần” xung quanh. Cuối cùng, các “trung thần” đều lần lượt “gạt lệ” tự rời bỏ vương quốc Lehman để khỏi phải nhìn thấy thảm cảnh sụp đổ của ngân hàng.

Câu chuyện của McCarthy kể khiến đế chế tài chính Lehman hiện lên giống với một vương quốc thời phong kiến ở phương Đông, nơi đám vua chúa đam mê tửu sắc, tin kẻ xu nịnh, hắt hủi hiền tài.

Khá kỳ lạ khi những câu chuyện tưởng như chỉ diễn ra hàng ngàn năm trước ở những xứ sở độc tài lại tái diễn ngay ở phố tài chính, trái tim năng động nhất của nước Mỹ, quê hương tự do, dân chủ.

Cuộc đối thoại định mệnh

Tình tiết đắt nhất diễn ra ở cuối câu chuyện khi tổng giám đốc Lehman Richard Fuld gặp Bộ trưởng tài chính Mỹ thời ấy là Hank Paulson. Paulson đã đưa ra lời khuyên rằng Fuld hãy thận trọng với những bong bóng. Fuld đã đáp lại phũ phàng:

“Tôi ngồi ở vị trí này lâu hơn nhiều so với thời gian ông đương nhiệm ở Goldman. Vì thế, đừng có bảo tôi phải điều hành công ty của mình như thế nào.”

Theo tác giả, sự “ngạo mạn, trơ tráo, thiếu khiêm tốn” của Fuld “ngay ở những giờ phút tăm tối nhất của Lehman” đã khiến cho vị Bộ trưởng tài chính tức giận và không ra tay cứu trợ khi Lehman sau đó gặp nguy hiểm. “Chính thời khắc đó, số mệnh của Lehman đã được định đoạt.”

Sự sụp đổ của Lehman đã không còn mới mẻ gì nữa nhưng bài học của nó vẫn còn nguyên tính thời sự: ở nơi nào những tiếng nói phản biện xây dựng bị phớt lờ bởi những ông hoàng ưa phỉnh nịnh, thích xa hoa; nơi ấy, khủng hoảng đã cận kề…

Khánh Duy

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2009

Châu chấu, Blog và quảng bá du lịch quốc gia


Những người làm quảng bá du lịch cho Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng truyền thông số để tìm ra những giải pháp tiếp thị sáng tạo cho đất nước mình. Nhà tư vấn tiếp thị số Ian Fenwich nhận định.

Ian Fenwick là tác giả cuốn sách “Tiếp thị số” mới được NXB Tri Thức và VNN Publishing cho ra mắt tại Việt Nam. VietNamNet đã có cuộc trao đổi với tác giả nhân dịp ông sang Việt Nam làm diễn giải chính trong Hội thảo quốc tế về Tiếp Thị Số được tổ chức tại Hà Nội, ngày 15 tháng 12 vừa qua.

Ian Fenwick là nhà tư vấn tiếp thị quốc tế và đào tạo quản trị kinh doanh nhiều kinh nghiệm . Ông từng là giám đốc chương trình MBA hàng đầu Canada tại trường Kinh tế Schulich. Hiện ông là nhà tư vấn cao cấp của Viện quản trị kinh doanh Sasin thuộc Đại học Chulalongkorn, Thái Lan


Tiếp thị số là hoạt hoạt động tiếp thị sử dụng các kênh kỹ thuật số như Websites, mạng xã hội, email, mobile, game, IPTV... Một lĩnh vực rất rộng và khái quát, ông có thể mô tả một ví dụ cụ thể về tính hiệu quả và sáng tạo của loại hình này?


Tôi lấy ví dụ về một chiến dịch marketing cực kỳ thành công ở Mỹ vào tháng 5 vừa rồi có tên: “Grasshoppers” (Châu chấu).

Có một công ty nhỏ ở Mỹ chuyên cung cấp dịch vụ điện thoại cho doanh nghiệp nhỏ, họ quyết định đổi thương hiệu thành Grasshopper.

Họ đã tìm một trang trại nuôi châu chấu sạch và mua 25.000 con châu chấu. Họ nướng châu chấu rồi bọc bên ngoài bằng một lớp vỏ chocolate xanh có hình dạng như con châu chấu. Công ty này cho 5 con châu chấu vỏ chocolate vào mỗi túi nhỏ và sau đó gửi 5.000 túi như vậy cho 5.000 blogger nổi tiếng và những người có ảnh hưởng nhất nước Mỹ.

Đa số tất nhiên không dám ăn chúng nhưng món quà quá kỳ lạ đến nỗi họ đều phải viết về nó trên blog của mình, buôn chuyện về nó ở khắp nơi, đẩy các đoạn video ăn châu chấu lên youtube. Các kênh truyền hình và báo chí thấy chuyện lạ cũng thi nhau đưa tin.

Đó là một chiến dịch tiếp thị thông minh và sáng tạo đến nỗi trong thời gian ngắn và chi phí tối thiểu đã thu hút được sự chú ý của dư luận. Họ đã biết tấn công vào giới blogger.

Đó là một giải pháp để quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp, còn ở tầm quốc gia thì sao?

Tháng 1 vừa rồi, tôi được mời làm diễn giả chính ở một hội thảo ở Toronto, Canada có chủ đề: “Làm thế nào để quảng bá địa điểm du lịch bằng truyền thông số.”

Cũng theo thông tin từ hội thảo, thành phố Montreal ở Canada đã dành 100% ngân sách quảng bá cho lĩnh vực truyền thông số chứ không tốn tiền vào những phương tiện truyền thống cũ như quảng cáo truyền hình hay tạp chí nữa.

Đó là một trường hợp có vẻ cực đoan nhưng tôi cho rằng tương lai của quảng bá du lịch sẽ chuyển dịch toàn diện về hướng truyền thông số.

Những trang mạng hướng dẫn và bình luận về địa điểm du lịch như tripadviser.com ngày càng trở nên phổ biến. Hầu hết khách du lịch ở Mỹ và Châu Âu sẽ không đi du lịch mà không đọc trước những bình luận đó trên mạng. Theo số liệu từ hội thảo, 40-50% khách du lịch đã đặt trước khách sạn, vé máy bay… trên mạng.

Chúng tôi đang rất quan tâm tới việc tận dụng truyền thông số để quảng bá thương hiệu và hình ảnh quốc gia như một điểm đến du lịch hấp dẫn, ông sẽ tư vấn gì cho cơ quan du lịch Việt Nam để có thể thực hiện điều đó?

Bước đầu tiên phải có một website thực sự hấp dẫn, thú vị và sáng tạo, thể hiện được tất cả những đặc điểm độc đáo nhất của đất nước. Đặc biệt quan trọng là hệ thống tìm kiếm trong trang web này phải thật sự tốt để người xem có thể tìm thông tin dễ dàng.

Bước thứ hai, các bạn phải tiến hành một chiến dịch tiếp thị qua các công cụ tìm kiếm trên mạng. Để khi giả sử tôi muốn tìm kiếm một nơi thú vị ở Châu Á cho kỳ nghỉ, những thông tin về Việt Nam hoặc một địa điểm nào đó của Việt Nam phải hiện ra ngay lập tức.

Rất quan trọng nếu bạn có thể khiến các blogger vào cùng tham gia. Bạn biết là bây giờ đa số đều đọc blog, rất nhiều người viết blog và tất nhiên phần lớn trong đó không nhận đồng nào khi viết. Tuy vậy, họ có ảnh hưởng và sức mạnh rất lớn. Hãy nghiên cứu và học hỏi từ chiến dịch châu chấu mà tôi đã nói ở trên.

Website chính thức để quảng bá du lịch thì Việt Nam cũng có nhưng chất lượng chưa đạt yêu cầu. Ông hãy cho biết một vài gợi ý để nâng cao chất lượng của chúng?

Các bạn cần xây dựng một cơ sở dữ liệu những người thật sự quan tâm tới Việt Nam hoặc một địa điểm nào đó trên đất nước các bạn.

Có thể thực hiện điều đó bằng cách lập một website cho phép tải về mọi thông tin du lịch cần thiết hoàn toàn miễn phí. Nhưng khi họ tải về thì phải đăng ký, khai một số thông tin cá nhân và đồng ý nhận thông tin từ bạn.

Quan trọng nhất là những thông tin đăng ký của họ cho ta biết nhân thân của họ, họ có con cái chưa, họ bao nhiêu tuổi, họ thích điều gì. Ví dụ, họ quan tâm đến nghệ thuật và ở địa điểm du lịch lại đang diễn ra một triển lãm nghệ thuật lớn. Vậy bạn có thể gửi email cho họ với lời chào mời đã được cá nhân hóa để phục vụ chính du khách đó. Những gì đã được cá nhân hóa bao giờ cũng tạo ra sự khác biệt rất lớn.

Ưu điểm của tính chất cá nhân hóa của tiếp thị số so với phương pháp truyền thống là gì?


Vấn đề ở đây là tiếp thị theo cách truyền thống chỉ hướng tới đối tượng đại chúng.

Nếu các bạn quảng bá bằng một TVC trên CNN, các bạn chỉ gửi đi một thông điệp chung chung cho đại chúng.

Nhưng khi thực hiện tiếp thị số, tôi có thể gửi một thông điệp riêng cho người đã có gia đình, người có họ hàng ở Việt Nam, người đã về hưu, người quan tâm đến nghệ thuật, thậm chí là người thích giúp đỡ người nghèo ở Việt Nam. Tôi có thể gửi đến họ một thông điệp đã được cá nhân hóa và điều đó tạo nên hiệu quả lớn hơn so với tiếp thị truyền thống.

Quan trọng nhất là bạn cần biết cách xây dựng cơ sở dữ liệu một cách thông minh để biết nên gửi cho ai với nội dung nào.

Có một cách thức nào sáng tạo hơn không để có thể tạo ra sự thu hút bùng nổ trong thời gian ngắn?

Trường hợp của bang Queensland của Úc chẳng hạn là một trường hợp ứng dụng tiếp thị số thành công điển hình.

Họ đưa ra một giải thưởng rất lớn cho một cuộc thi làm video clip, giải thưởng lên tới 150.000 đôla Úc để người thắng cuộc đủ tiền sống và vui chơi ở đảo Queensland trong vòng 6 tháng.

Tham dự cuộc thi, bạn phải làm một đoạn video một phút giải thích tại sao bạn lại nên được chọn và bạn đẩy đoạn video đó lên trang web của họ.

Và đã có tới 35.000 người trên toàn thế giới tham gia cuộc chơi này và đương nhiên có 35.000 đoạn video trên mạng. Trong các đoạn clip đó, mọi người trên khắp thế giới nói tại sao họ lại muốn tới sống ở Queensland và những đoạn clip đó sẽ mãi mãi ở trên mạng. Đó chính là một khối lượng khổng lồ những clip quảng cáo cho bạn.

Quan trọng hơn, do cuộc thi này là sự kiện khác thường, nó đã thu hút sự chú ý của rất nhiều tờ báo và đài truyền hình trên thế giới, họ đã đưa tin miễn phí cho bạn.

Mọi chuyện thành công ngoài dự kiến ngoại trừ ngày cuối cùng trong hạn nộp bài thi, có tới 7.000 người cố gắng đẩy đoạn video của họ lên và trang mạng sập vì quá tải.

Tôi nghĩ trường hợp Queensland là điển hình của một cách làm sáng tạo và độc đáo, nó cho phép khách hàng tham gia trực tiếp và sáng tạo cùng với bạn.

Điều gì cản trở đối với việc thực hiện tiếp thị qua các kênh số?


Vấn đề khó khăn nhất là đối phó với chuyện bị phê bình. Khi một du khách nào đó than phiền, xu hướng của chính quyền ở Châu Á thường là bỏ ngoài tai hoặc cho rằng họ nói nhảm.

Tôi thấy các nước Châu Á hay vướng phải tâm lý này. Trong khi đáng ra các bạn cần thật sự quan tâm tới những bình luận của khách du lịch trên các trang mạng đó, bạn phải theo dõi nó thường xuyên.

Nếu có ai đó phàn nàn, bạn phải có câu trả lời cho họ, hãy nói với họ rằng bạn xin lỗi về điều đó, đó chỉ là trường hợp cá biệt và chúng tôi sẽ sửa chữa, khắc phục bằng cách nào đó.

Những người khác khi xem lại bình luận đó sẽ không chỉ thấy vấn đề mà đã thấy cả giải pháp, họ sẽ rất hài lòng.

Vấn đề không chỉ là quảng bá bằng những phương tiện số, vấn đề còn là theo dõi chặt chẽ và hồi đáp với một thái độ chân thành và trách nhiệm.

Nhiều người nói tiếp thị số hiệu quả không phải là tiếp thị. Tiếp thị số hiệu quả là nói sự thật và phản hồi đầy đủ với những người quan tâm.

Hiệu quả của tiếp thị số so với tiếp thị truyền thống bằng quảng cáo trên truyền hình hay tạp chí như thế nào, theo ông?

Tôi không bao giờ nghi ngờ rằng hiệu quả của tiếp thị số sẽ lớn hơn nhiều so với tiếp thị truyền thống.

Tôi không nghĩ rằng cách làm những TVC quảng cáo phát trên CNN như một số quốc gia Châu Á đang làm hiện nay có hiệu quả.

Tôi nghĩ không nên bắt chiếc hoàn toàn ai cả trong không gian số này, nhưng các bạn có thể ngồi lại với nhau để tìm ra những giải pháp tiếp thị sáng tạo cho đất nước mình.

Khánh Duy

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2009

Thiên hạ



1.

1949 – 2009. Người ta nhìn thấy mốc thời gian đó ở nhiều nơi trong Lễ kỷ niệm Quốc khánh vừa qua của Trung Quốc. Năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa kết thúc bằng con số 9.

Số 9, theo quan niệm Trung Quốc, biểu trưng cho sức mạnh và quyền lực. Đó là con số dành cho các bậc vua chúa. Các hoàng đế Trung Quốc xưa thường mặc long bào có 9 con rồng, ngai vàng thường đặt trên 9 bậc, đội múa lân cho vua xem có 9 người. Đồ vật trong cung đình cũng thường có 9 như Cửu Long Bôi (9 cốc rồng), Cửu Đào Hồ (ấm 9 quả đào), Cửu Long Trụ (cột 9 rồng), Cửu Đỉnh (9 cái đỉnh).

Số 9 tượng trưng cho Trời, Thiên tử là con Trời mới xứng với số 9. Đó là con số của Cung đình, không ngẫu nhiên khi Tử Cấm Thành có đúng 9.999 phòng. Người Trung Quốc không làm gì mà không tính toán cẩn trọng về tâm linh, phong thủy.

Và cũng không ngẫu nhiên khi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc có đúng 9 người.

Nếu số 9 đúng là biểu hiện cho Vương quyền thì việc lập quốc năm 1949 khá may mắn với Trung Quốc. Nhưng, kỳ lạ thay, những năm có đuôi 9 lại là những năm mà vương quyền Trung Quốc gặp nhiều thách thức nhất.

Chính vào năm 1949, Đài Loan bị chia tách khỏi đất mẹ. Năm 1959, cuộc nổi dậy của người Tây Tạng. Năm 1989, cuộc biểu tình đòi dân chủ của sinh viên ở Thiên An Môn. Năm 1999, sự kiện Pháp Luân Công và năm nay 2009, cuộc bạo động ở Tân Cương.

Đó là sự tình cờ của lịch sử hay nỗi ám ảnh tâm linh mang tên số 9?

2.

Quảng trường Thiên An Môn trong lễ kỷ niệm Quốc khánh 1.10 đẹp rực rỡ bởi cờ hoa. Cổng Thiên An Môn với bức ảnh lớn của ông Mao Trạch Đông quay mặt về hướng nam, nhìn thẳng ra Tượng đài tưởng niệm các anh hùng nhân dân và lăng Mao Trạch Đông. Nếu để ý kỹ thì sẽ thấy ở trước Tượng đài kỷ niệm các anh hùng nhân dân, người ta đặt một tấm ảnh rất lớn của ông Tôn Trung Sơn.

Không phải bao giờ ảnh ông Tôn Trung Sơn cũng được đặt ở đó. Nhưng trong lễ kỷ niệm Quốc khánh này và một số thời điểm khác trong năm, người ta cho hai ông Mao Trạch Đông và Tôn Trung Sơn quay mặt nhìn nhau giữa quảng trường Thiên An Môn lộng gió.

Nhưng, những gì đã diễn ra trên đất nước Trung Quốc dười thời ông Mao Trạch Đông chắc chắn không làm vừa lòng Tôn tiên sinh nếu như ông còn sống để chứng kiến.

Tôn Trung Sơn là người chủ trương xây dựng chính thể cộng hòa, ông bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 do ông lãnh đạo đã lật đổ chế độ phong kiến nhà Thanh để thành lập Trung Hoa Dân Quốc, nền cộng hoà lâu đời nhất ở Đông Á. Tiếc là nỗ lực xây dựng nền Cộng hoà thực sự của ông đã không được hiện thực hóa trên đất nước Trung Quốc.

Tưởng Giới Thạch, người thay thế ông lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1925, đã chỉ lo lắng tới việc điều binh khiển tướng để tiêu diệt Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông nhằm thống nhất Trung Quốc hơn là cố gắng xây dựng một chính thể cộng hoà giữa thời buổi loạn lạc.

Mao Trạch Đông thống nhất Trung Quốc vào năm 1949, thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Tuy vậy, nền cộng hoà mà ông Mao Trạch Đông xây dựng khác với ý niệm Cộng hoà mà ông Tôn Trung Sơn đã hình dung.

Nền cộng hòa tư sản theo tinh thần cách mạng Pháp chưa bao giờ thực sự tồn tại ở Trung Quốc. Nền Cộng hoà mà Tôn Trung Sơn nhen nhóm từ đầu thế kỷ 20 tại sao không thể kéo dài thành công ở Trung Quốc? Tại sao ngay từ khi cách mạng Tân Hợi mới thành công đã xuất hiện một Viên Thế Khải âm ưu tự phong mình là hoàng đế hơn là hài lòng với chức vị tổng thống của nền Cộng Hoà?

Gần 100 năm từ cách mạng Tân Hợi, 60 năm CHND Trung Hoa, Trung Quốc đã không đi theo con đường Cộng hòa dân chủ kiểu Tây phương. Nền chính trị của Trung Quốc là nền chính trị nơi quyền lực được tập trung cao độ vào tay nhà nước (tập quyền) và phảng phất nét vương quyền phong kiến. Cho dù tên gọi có thể khác, cho dù tính chất đã bị giảm nhẹ nhưng tinh thần của một nhà nước vương quyền vẫn còn đó.

Phương Tây tốn quá nhiều giấy mực phê phán mô hình đó. Trung Quốc nói rằng mỗi quốc gia có bối cảnh riêng, Trung Quốc chọn con đường mang “màu sắc Trung Quốc”.

3.

Khu vực thành Bắc Kinh có một bố cục hoàn hảo về mặt phong thuỷ. Trục thẳng xuyên từ Bắc tới Nam thành phố nằm trên một đường long mạch dài 17Km, người Trung Quốc gọi đó là đường trung trục vĩ đại. Đường thẳng này đi xuyên qua toàn bộ những kiến trúc quan trọng nhất của thành Bắc Kinh từ Cổng thành phía bắc (nay là Lầu Phong Thuỷ) cho tới Tử Cấm Thành, Thiên An Môn, Lăng Mao Trạch Đông… và cả sân vận động Tổ Chim hiện đại.

Tất cả những di tích quan trọng về chính trị đều nằm trên một đường thẳng chính là đường long mạch của Bắc Kinh. Cấu trúc này mang hình dáng một con rồng, một biểu tượng của chế độ quân chủ chuyên chế hơn 2000 năm từ khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc.

Tượng đài tưởng niệm các anh hùng nhân dân là một cột bê tông lớn cắm thẳng xuống đường long mạch đó và nhìn thẳng về phía Tử Cấm Thành. Nguồn tin phi chính thống nói rằng việc cắm một cột bê tông xuống long mạch như vậy không chỉ nhằm mục đích tưởng niệm các anh hùng mà còn để “thiến rồng”, không để cho chế độ quân chủ phong kiến ngóc đầu dậy. Việc phá hẳn một cổng thành ngay trước Thiên An Môn để đặt Lăng Mao Trạch Đông ở đó cũng có ý nghĩa quan trọng về mặt Phong Thuỷ.

Tuy vậy, anh linh của các anh hùng dân tộc mà tấm bê tông kia tưởng niệm chỉ khiến cho con rồng quân chủ không thể ngóc đầu dậy về mặt hình thức. Xét về bản chất, hơi hướng của nền quân chủ tập quyền vẫn còn ngay trong thời đại ngày nay. Nói cách khác, tập quyền và vương quyền có cơ sở văn hóa lâu dài trong đời sống chính trị và văn hóa chính trị của Trung Quốc.

Khởi điểm là vào năm 221 trước Công Nguyên, khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc sau một giai đoạn các quốc gia hỗn chiến. Lần đầu tiên, một nhà nước phong kiến tập quyền mạnh cai trị trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Tần Thuỷ Hoàng bị không ít người phế phán là bạo tàn, bạc ác khi cai trị dân tộc một cách khắc nghiệt. Ông bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, đem quân đội mở mang bờ cõi làm cả triệu người bỏ mạng. Tuy vậy, nhà Tần ra đời là một bước ngoặt, đem lại những thay đổi lớn lao cho Trung Quốc. Quan trọng nhất là kể từ đó, Trung Quốc định hình mình như một đế chế chung với bờ cõi mênh mông chứ không còn là tập hợp những tiểu quốc luôn tìm cách thôn tính lẫn nhau.

Ai đã xem bộ phim nổi tiếng Anh Hùng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu mới thấu hiểu tinh thần này của Trung Quốc. Bộ phim kể về những thích khách đi ám sát Tần vương với những tình tiết bất ngờ. Bất ngờ nhất là khi Tần Vương hiểu ra sự thực rằng thích khách Tàn Kiếm đã có cơ hội giết mình nhưng đã không làm vậy. Khi được hỏi tại sao, Tàn Kiếm đã viết lên cát hai chữ: THIÊN HẠ.

Thống nhất được Thiên Hạ quan trọng hơn số phận của những cá nhân, để thống nhất cần một chính thể tập quyền. Tập quyền, chuyên chế chưa chắc đã dễ chịu với nhiều cá nhân nhưng nó đóng vai trò quan trọng để duy trì Trung Quốc như một ĐẠI Quốc. Xuyên suốt cả một lịch sử “tan rồi lại hợp, hợp rồi lại tan”, người Trung Quốc đặc biệt là giới tinh hoa chính trị có lý do để lo sợ sự đổ vỡ thành từng phân mảnh của một nước Trung Hoa lớn, họ phải tìm cách giữ lấy và bành trướng hơn nữa đất nước Trung Quốc bằng cách duy trì quyền lực tập trung.

Đi khắp đất nước Trung Quốc, lại càng thấy có vẻ như bá quyền đã trở thành một cái gì đó thuộc về bản sắc của đất nước tỉ dân này. Nơi nơi từ Vạn Lý Trường Thành tới Tử Cấm Thành, Trung Quốc bao giờ cũng thể hiện ra cho thế giới thấy sự vĩ đại, to lớn và vượt trội của nó. Lễ mừng Quốc khánh hôm 1.10 vừa qua là một điển hình.

Một điển hình tiêu biểu khác là các tòa nhà lớn, di tích lớn của Trung Quốc từ cổ chí kim rất hay có hai con sư tử đứng canh hai bên cổng. Theo phong thuỷ, một con đè chân lên một quả cầu thể hiện tinh thần BÁ QUYỀN THIÊN HẠ còn con kia đè chân lên một con sư tử con thể hiện tinh thần MẪU NGHI THIÊN HẠ. Sư tử theo phong thuỷ phát ra bá khí và Trung Quốc vẫn khao khát duy trì bản sắc bá quyền.


Ông Trương Nghệ Mưu đã mất ba năm để viết kịch bản cho bộ phim Anh Hùng. Bộ phim đã thành công vang dội không chỉ bởi nghệ thuật mà còn bởi thông điệp mang tính tư tưởng của nó. Trương Nghệ Mưu đã thay mặt nhiều người Trung Quốc nói lên tham vọng nhất thống THIÊN HẠ của một cường quốc. Bá quyền, tập quyền và vương quyền đã trở thành một truyền thống văn hóa hay nói chính xác hơn là một ý thức hệ của dân tộc Trung Hoa.

Nếu như người ta nói rằng nước Nga man rợ không thể tồn tại nếu thiếu ngọn roi hung bạo của Piốt Đại Đế thì cũng có thể nói rằng Trung Hoa mênh mông không thể tồn tại nếu thiếu tham gươm bá quyền của Tần Thủy Hoàng. Nước Nga đã tìm thấy cho mình một Sa Hoàng mới thì Trung Quốc vẫn phải tìm kiếm những Hoàng đế mới.

Con đường tới một xã hội dân sự mạnh và quyền lực được phân chia còn dài ở Trung Quốc. Không phải học giả và chính trị gia Trung Quốc không hiểu tự do dân chủ kiểu Tây Phương là thế nào, họ thừa sức để thấu hiểu. Nhưng thể chế chính trị phải tồn tại để bảo vệ chính nó và cũng phản ánh một phần bản sắc và não trạng chính trị của một dân tộc.

4.

Trong một hội thảo về Quan hệ quốc tế diễn ra ở Hàn Quốc vài năm trước, tôi có cuộc trao đổi với một anh bạn người Trung Quốc là Thạc sỹ Chính trị tại Đại học Nhân Dân ở Bắc Kinh. Tôi chép lại cuộc đối thoại thay cho lời kết:

- Liệu Trung Quốc có thể áp dụng mô hình dân chủ tự do kiểu phương Tây được không?
- Không phải bây giờ
- Tại sao?
- Vì Trung Quốc quá lớn
- Nước Mỹ đâu có nhỏ?
- Nhưng nước Mỹ không có lịch sử hơn 2000 năm vương quyền như Trung Quốc.

Khánh Duy

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2009

Tin tức chính thống: từ “cậu ấm” thành “trẻ lạc loài”




“Tin tức chính thống từ chỗ được che chở nay bỗng lạc vào thế giới tàn ác, phải tự bơi tự sống hoặc chết chìm”. Tác giả Alex S. Jones mô tả số phận của tin chính thống trong thế giới số.

Mô tả mang tính ẩn dụ trên được tác giả Alex S.Jones đưa ra trong cuốn sách mới nhất của ông vừa được nhà xuất bản Đại học Oxford ấn hành có tên “Losing the News”, tạm dịch “Sự suy thoái của tin tức”

Alex S.Jones là một nhà báo đã từng đoạt giải Pulitzer của Mỹ vào năm 1987, hiện ông là giám đốc Trung tâm Báo chí, Chính trị và Chính sách công Shoreinstein, Đại học Harvard.

Đạn súng thần công

Alex S.Jones coi tin tức như một quả đạn súng thần công, một quả cầu sắt, xám, xù xì và nặng. Quả đạn sắt ấy có sức công phá khủng khiếp, có thể bắn gục cả tổng thống như trường hợp của Richard Nixon trong vụ Watergate bị báo chí Hoa Kỳ phanh phui những năm 1972-1974.

Không phải tin tức nào cũng là đạn súng thần công. Chỉ có những tin tức “buộc chính phủ và những người có quyền lực phải có trách nhiệm giải trình” mới mang trong lòng sức mạnh ấy. Chúng được gọi là những tin tức chính thống, đối lập với những tin tức kiểu nhẹ nhàng, giải trí.

Tin chính thống là trung tâm của báo chí, nó như một quả cầu tròn nằm ở giữa và bao quanh là những thông tin đủ loại khác trên mặt báo từ giải trí, tư vấn, bí quyết, công thức nấu ăn, truyện ngắn, biếm họa, du lịch, trò chơi ô chữ…

Thậm chí ngay cả những bài xã luận, bài bình luận do các học giả lớn viết cũng không được xếp vào trong vòng tròn trung tâm ấy, đó chỉ là thứ phái sinh từ trung tâm, lý giải và phân tích tin tức chính thống. Alex viết: “Chúng nằm ngoài trung tâm, bởi chúng luôn cung cấp những bình luận và quan sát cá nhân, đó không phải là thông tin gốc.”

Nếu ví tin chính thống như “trái đất” thì tất cả những thứ xung quanh chỉ như “tầng sinh quyển”. Rất nhiều thứ trong tầng sinh quyển phát sinh từ trái đất. Không có bình luận, xã luận thậm chí cả truyện cười chính trị, biếm họa nếu như không có một sự kiện nào đó khơi nguồn.

Tin tức chính thống có sức công phá của thần công còn bởi nó dựa trên hiện thực và đã được kiểm chứng. Nó đối lập với những kiểu tin giả định vẫn đầy rẫy ở các blog, diễn đàn hay quán nước vỉa hè.

Alex cho rằng tin chính thống làm nên sức mạnh thứ 4 của báo chí. Nó là trái tim của báo chí, là một trong những cột trụ của nền dân chủ.

Thế lưỡng nan giữa vai trò xã hội và nhiệm vụ kinh doanh

Theo những nghiên cứu được Alex Jones đưa ra trong cuốn sách thì có tới 85 đến 95% những tin tức chính thống như vậy đến từ những tờ báo. Các tờ báo ở Mỹ luôn thuộc sở hữu tư nhân nên chúng luôn phải cân bằng giữa hai yếu tố trách nhiệm xã hội và trách nhiệm kinh doanh.

Có một thực tế là đa số độc giả sẽ bị hút bởi những “tin nhẹ” kiểu giải trí, thư giãn, giật gân hơn là những “tin nặng” chính thống. Vậy nên, để đảm bảo tính hấp dẫn và mục tiêu lợi nhuận, các tờ báo in luôn duy trì tỉ lệ 15% cho “tin chính thống”, 35% cho các tin mềm mại giải trí cho số đông, 50% số trang cho quảng cáo.

Tỉ lệ trên đã duy trì trong suốt 150 năm qua ở Mỹ, tức là suốt từ giữa thế kỷ 19. Tin chính thống chỉ chiếm 15% và mang lại lượng độc giả cũng như doanh thu ít hơn nhiều so với “tin nhẹ” nhưng lại tiêu tốn một số tiền lớn của tờ báo.

Sở dĩ như vậy bởi, chủ báo phải tốn nhiều chi phí cho việc trả lương những người thực hiện được kiểu “tin nặng” như vậy. Họ hưởng thu nhập cao bởi luôn được coi là những người giỏi nhất và chuyên nghiệp nhất trong làng báo. Họ là linh hồn của tờ báo.

Đỉnh cao nhất trong số họ là những phóng viên điều tra, tổng chi phí lương lậu và hành chính cho một phóng viên điều tra giỏi ở Mỹ theo Alex Jones có thể lên tới 250 ngàn đô la một năm.

Cho dù không “tươi mát”, “ăn khách” và đem lại tiền của rõ ràng như tin giải trí vui vẻ, những tờ báo lớn vẫn phải “nuôi” dòng tin chính thống để duy trì bản sắc, thương hiệu và uy tín của tờ báo, nói cao xa hơn một chút là để thực hiện trách nhiệm xã hội của tờ báo.

Tin chính thống và những phóng viên chính trị, xã hội chính thống là những “cậu ấm” được nuông chiều. Cho dù đứng trước sức ép kinh doanh, gặp nhiều khó khăn, các chủ báo lớn vẫn duy trì tỉ lệ 15% cho “tin nặng” trong một lịch sử dài hơn thế kỷ rưỡi.

Thế rồi, kỷ nguyên số ập đến, khó khăn của các tờ báo in bỗng biến thành khủng hoảng. Người đọc chuyển sang báo mạng và doanh thu quảng cáo báo in giảm thê thảm.

Các tờ báo in không còn cách nào khác buộc phải: “cắt giảm những nhân sự làm tin chính thống, những người làm ra loại tin mà độc giả cho là nhàm chán nhất nhưng lại tốn kém nhất, thu hút những phóng viên giỏi và nhiều kinh nghiệm nhất. Càng ngày, loại tin tức này càng bị coi là xa xỉ hơn là cần thiết…”

Từ “cậu ấm”, tin chính thống bỗng thành “trẻ lại loài” bị ném ra ngoài đường phố của thế giới số. Tin nặng ngày càng bị lấn lướt và khuynh loát bởi tin nhẹ. Quả cầu sắt thần công đang nhỏ dần và mất đi uy lực của nó.

Quá trình đó đã được Alex mô tả kỹ càng trong cuốn sách “Sự suy thoái của tin tức” của ông. Nhưng, đó chỉ là phần nhỏ trong cuốn sách, từ sự băng hoại dần dần của tin chính thống, Alex trăn trở về những tổn thất mà nền dân chủ sẽ gặp phải khi thiếu vắng những tin “buộc chính phủ phải giải trình” như vậy.

Đẩy vấn đề sâu hơn, Alex tiếp tục dẫn người đọc vào thế giới của báo chí, nơi không chỉ tin chính thống bị thách thức, mà ngay cả tự do ngôn luận, sự khách quan, đạo đức báo chí cũng đang ở trong trạng thái mong manh dễ vỡ.

Giữa một xã hội đang ngày càng tiến bộ hơn, Alex viết ra những điều ấy có vẻ như nghịch lý, nhưng đó là những nghịch lý có thật. Ông đã cho người đọc xem một bức tranh hiện thực toàn cảnh về nền báo chí Hoa Kỳ.

Những tổn thương của các giá trị báo chí mà Alex viết trong cuốn sách không hề là chuyện xa xôi của nước Mỹ. Ngay ở Việt Nam, những giá trị đó cũng đang vô tình hay cố ý bị xâm phạm, và nguyên nhân của nó không phải chỉ là sự lên ngôi của kỷ nguyên số.

Khánh Duy

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

Ảo tưởng đột phá

Đặt tên cuốn sách của mình là “Công ty đột phá”, Keith McFarland cũng định làm một cú đột phá trong nghiên cứu công ty như bậc thầy Jim Collins của ông đã làm được với hai cuốn “Từ tốt đến vĩ đại” và “Xây dựng để trường tồn”.

Thành thật mà nói, Keith McFarland đã “bắt chước” một cách triệt để hai cuốn sách gây xôn xao doanh giới toàn cầu của Collins, “bắt chước” từ phương pháp nghiên cứu tới cách cách thức thể hiện. Điều khác chỉ là, hai cuốn của Collins nghiên cứu tại sao các công ty khổng lồ lại trường tồn và vĩ đại, ngược lại, Keith nghiên cứu căn nguyên khiến các công ty nhỏ vươn vai trở thành Thánh Gióng.

Xét từ góc độ ấy, cuốn sách của Keith phù hợp hơn với Việt Nam, nơi các doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ. Nhưng có lẽ, Keith chưa học được cái tài kể chuyện của Jim Collins, cuốn này của ông không có được sự quyến rũ mê hoặc doanh nhân như hai cuốn sách của Jim.

Dẫu vậy, Keith đã đưa ra được một số kết luận tương đối đáng suy nghĩ. Những công ty Thánh Gióng theo quan điểm của Keith có 9 đặc trưng cơ bản trong đó có 3 đặc trưng đầu tiên rất đáng quan tâm: Đặt công ty lên hàng đầu, Tăng khoản đặt cược và Xây dựng đặc tính công ty.

Những đặc trưng của công ty đột phá

Quan niệm của Keith về Đặt công ty lên hàng đầu không mới so với Jim và nhiều nhà nghiên cứu kinh doanh khác. Keith cũng cho rằng trong mọi công ty đột phá, nhân viên làm vì lợi ích của tổ chức chứ không làm vì lãnh đạo, cam kết công hiến cho tổ chức chứ không “ngu trung” với lãnh đạo, mọi hoạt động đều hướng tới việc phục vụ công ty chứ không phải phục vụ lãnh đạo.

Công ty đột phá có sức sống của riêng nó, có bản sắc của riêng nó chứ hoàn toàn không phải là sự phản ánh đơn thuần những đặc điểm của người lãnh đạo. Sáng kiến đến từ mọi cấp chứ không phải là sản phẩm của lãnh đạo. Nhân viên được tuyên dương bởi đã âm thầm góp sức xây dựng công ty chứ không phải vì “to mồm” khoa trương cho lãnh đạo thấy.

Quan điểm của Keith về Tăng khoản đặt cược cũng không khó hiểu. Một công ty muốn đột phá theo Keith cần mạnh dạn đầu tư vào một thị trường mới, tuân thủ một quá trình mới, giành giật nguồn lực mới, tận dụng địa điểm mới hoặc khai thác kênh bán mới một cách quyết liệt và triệt để. Họ phải có gan “đánh cược” phần lớn nguồn lực vật chất và tinh thần vào đó hơn là làng nhàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Ý tưởng Xây dựng đặc tính công ty của Keith là mới hơn cả so với các luận điểm khác của ông trong cuốn này. Keith cho rằng mọi công ty đều hô hào những tuyên bố giá trị rất hùng hồn nhưng thật ra chẳng mấy ai làm được như những gì họ tuyên ngôn. Những công ty đột phá thật sự tạo ra “đặc tính” “bản sắc” của riêng họ nhờ những gì họ đã làm chứ không đơn thuần là vẽ ra “trên giấy”. Họ “tập trung vào việc thống nhất giữa những gì họ nói và những gì họ thật sự làm”

Hiện thực hay tấm gương?

Keith McFarland đã thật sự nỗ lực với “Công ty đột phá”. Bắt chước phương pháp của Collins, ông nghiên cứu tới 7000 công ty, trò chuyện với 1500 nhà điều hành, liệt kê 5600 bài báo. Từ đó, ông chọn ra 9 công ty đột phá nhất rồi so sánh chúng với những công ty đối thủ cùng ngành nghề nhưng không thành công. Dữ liệu nghiên cứu công phu và dày dặn như vậy dễ khiến người đọc cảm thấy yên tâm với những kết luận của Keith.

Với những doanh nhân hay sinh viên chưa từng đọc một cuốn sách quản trị kinh doanh nào, “Công ty đột phá” của Keith có thể làm họ bị ngợp, sẽ không đến mức bị mê hoặc như với “Từ Tốt đến Vĩ Đại” hay ‘Xây dựng để trường tồn” của Jim Collins, bởi Keith chưa có được lối viết lôi cuốn nhiều ẩn dụ đến vậy. Nhưng rất dễ, họ sẽ “gửi trọn niềm tin” nơi Keith.

Họ nên biết thêm rằng phương pháp luận và những luận điểm của ngay cả ông thầy Collins cũng còn đang bị phê phán và coi là cần “xét lại” ở Mỹ. Nên đương nhiên, những kết luận như đúng rồi của Keith theo phương pháp Collins trong cuốn này cũng cần được đặt dấu hỏi to đùng ở phía sau.

Muốn biết tại phương pháp và kết luận của Collins và Keith lại chưa đựng quá nhiều sơ hở cần đọc một cuốn sách nổi tiếng đã được xuất bản ở Việt Nam có tên “Hiệu ứng Hào quang”. Chỉ xin nhắc lại một quan điểm nổi bật của nó là mọi nghiên cứu công ty dựa trên hàng núi cơ sở dữ liệu kiểu như Keith cũng không chắc đã có giá trị bởi những dữ liệu là bài báo, bài phỏng vấn, bài nghiên cứu ấy đều được viết vào thời điểm các công ty đó đang ở đỉnh cao thành công.

Mấy nhà điều hành, nhân viên, nhà báo lại nói những điều tồi tệ, viết những điều xấu xa về một công ty đang trong ánh sáng huy hoàng của vòng nguyệt quế. Họ cũng bị ngợp trong vòng hào quang ấy khi nhận định về công ty. Khi gió đổi chiều, công ty lao dốc thì mọi thứ bỗng đổi khác, tất cả họ sẽ lại thi nhau vùi công ty xuống bùn đen bằng những lời chỉ trích hoàn toàn ngược lại.

Đó chỉ là một trong nhiều những sai sót, ảo tưởng trong phương pháp luận mà cuốn “Công ty đột phá” của Keith McFarland mắc phải. Dữ liệu và phương pháp chưa chắc chắn thì không thể nói những kết luận của cuốn sách là chính xác trong bối cảnh nước Mỹ. Nó sẽ càng không thể là lý tưởng ở một môi trường như Việt Nam nơi từ môi trường kinh doanh đến chất lượng nhân lực đều hoàn toàn không lý tưởng. Áp dụng cứng nhắc những kết luận của Keith không đảm bảo cho bất kỳ “đột phá” nào.

Tuy vậy, tôi cho rằng “Công ty đột phá” là một cuốn sách nên đọc với các nhà quản trị và nghiên cứu quản trị kinh doanh. Nên đọc không phải bởi những kết luận của nó đã hoàn toàn chính xác với thế giới hay với Việt Nam, nên đọc bởi nó như một tấm gương để mỗi nhà quản trị công ty soi lại mình.

Tấm gương ấy không hẳn đã phản chiếu hiện thực, thậm chí còn phản ánh hiện thực lộn ngược. Nhưng chúng ta vẫn cần “soi gương” mỗi ngày để tìm thấy những vết bẩn trên khuôn mặt chính mình. Mỗi nhà quản trị phải soi lại và suy nghĩ liên tục mỗi ngày để sáng tạo ra những con đường mới trong thế giới kinh doanh đầy thách thức này.

Khánh Duy

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009

Angkor, miền lý tưởng xa vời


Từ điêu tàn tới điêu tàn

Những căn nhà sàn lợp lá xơ xác, những cây thốt nốt trơ trọi giữa cái nắng thiêu đốt mùa hè, những đồng ruộng khô cạn không bóng người cày cấy, vùng nông thôn Campuchia sau 30 năm diệt chủng vẫn đói nghèo như thế.

Xuôi quốc lộ 6 trên con đường từ cửa khẩu Mộc Bài tới Siem Riep, không thấy bóng dáng của sức sống con người. Biết là Campuchia nghèo, nhưng tôi cũng không ngờ là nghèo đến vậy. Đi trên những con đường nông thôn Việt Nam, còn thấy nhà mái bằng, cửa hàng tạp hóa, đồng ruộng xanh tươi thấp thoáng bóng người chăm bón. Đi suốt dọc theo quốc lộ của Campuchia, hi hữa mới thấy một căn nhà mái bằng, đa số là nhà lá, phần còn lại là những căn nhà ốp ván tạm bợ.

Qua những thị trấn ở Kongpong Thom, Kongpong Cham, khung cảnh bớt tiêu điều hơn nhưng nơi đâu cũng thấy bóng ma diệt chủng dường như vẫn còn ám ảnh đâu đây. Những con đường, thị trấn chẳng biết tên gọi là gì, chỉ thấy người ta gọi nó bằng những cái tên như Đại lộ Kinh hoàng, Thị trấn ma. 30 năm trước, nơi đây có những căn nhà 15 người không một ai còn sống sót bởi một chế độ vô nhân tính. 30 năm sau, vẻ ngơ ngác và khổ cực vẫn hằn lên trên từng khuôn mặt Campuchia đen đúa.

Điêu tàn, đó có lẽ là từ cô đọng hơn cả để nói về vùng nông thôn Campuchia. Điểm nhấn có lẽ chỉ là những đoàn xe du lịch sang trọng hàng ngày vẫn chạy về Siem Riep chỉ để thăm quan một nơi điêu tàn khác: khu quần thể Ankor nổi tiếng, kỳ quan thiên nhiên thế giới năm 1992 theo bình chọn của Liên Hợp Quốc.

Angkor là một quần thể những đền đài một thời là trung tâm của đế chế hùng mạnh Khmer. Điêu tàn có lẽ cũng là từ hợp lý khi nhìn cận cảnh những phế tích còn tồn tại trên mảnh đất này. Nhưng đó lại là cái điêu tàn đáng xem, khác với cái điêu tàn của những cánh đồng trơ trụi chỉ có nhà lá và cây thốt nốt.


Một lịch sử bị lãng quên


Là kinh đô của đế chế Khmer thịnh trị suốt từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, Angkor một thời đã từng là trung tâm quyền lực và tôn giáo của cả một vùng đất rộng lớn gồm cả Campuchia, Lào, Miễn Điện, Thái Lan và một phần của miền nam Việt Nam bây giờ. Những cung điện, đền đài trong hai khu chính của Angkor là Angkor Wat (Kinh đô chùa) và Angkor Thom (Kinh đô lớn) được xây dựng hoàn toàn bằng những phiến đá ghép lại với nhau. Xưa kia, nơi đây chắc chắn đã từng một thời tráng lệ và linh thiêng. Như giáo sĩ người Bồ Đào Nha Diogo Do Couto viết trong chuyến viếng thăm Angkor năm 1686: “Đây là một công trình ngoại hạng đến nỗi không diễn tả nổi bằng ngòi viết, một kiến trúc không giống kiến trúc nào khác trên thế giới. Angkor có những tháp, kiến trúc trang trí và tất cả những cái tinh tuý nhất mà thiên tài con người có thể nghĩ ra được.”

Vào năm 1431, vương quốc Ayutthaya của người Thái đánh bại đế chế Khmer. Đế chế hùng mạnh một thời đi vào quên lãng và khu quần thể Angkor cũng bị lãng quên hoàn toàn trong rừng sâu ít người qua lại. Mãi tới năm 1858, nhà thực vật học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã khám phá lại khu di tích Angkor u tịch, chìm đắm trong rừng rậm từ bao thế kỷ. Từ trên đỉnh núi Bakheng, ông nhìn xuống Angkor và xúc động viết những dòng sau trong cuốn nhật ký của mình: “Tất cả vùng này giờ đây vắng lặng và cô quạnh, trước kia chắc hẳn nhộn nhịp và vui vẻ lắm, nay chỉ còn tiếng hú của các loài thú dữ và tiếng chim kếu giữa im lặng cô đơn…”

Angkor không còn im lặng cô đơn như xưa nữa bởi giờ đây, hơn 2 triệu lượt khách đổ về vùng này mỗi năm và con số cứ mỗi ngày một tăng chóng mặt. Angkor giờ nhộn nhịp những bước chân người như thời còn hưng thịnh. Duy chỉ có điều, những khu đền đài của Angkor ngày nay không còn gì thánh thiêng như chắc nó đã từng thời ấy, không chỉ bởi tất cả đã cũ kỹ và đổ nát theo tháng năm…

Angkor Wat – Gương mặt thánh thiêng đã mất

Angkor của ngày xưa là miền đất thánh của hai tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo và Phật giáo. Những chứng tích tôn giáo hiển hiện trên toàn bộ khu di tích rộng lớn cũng như trên từng nét chạm khắc nhỏ nhất của Angkor.

Toàn bộ khu đền Angkor Wat được xây dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ 12 dưới thời vua Suryavarman II. Khu quần thể rộng tới 200 hécta này được xây dựng để thờ thần Vishnu, một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo. Angkor Wat được mô phỏng theo đúng vũ trụ Meru của người Ấn Độ xưa. Hào nước rộng bao quanh khu đền biểu tượng cho những đại dương nhiệm màu bao quanh trái đất. Những hành lang đồng tâm liên tục bao quanh khu tháp trung tâm biểu tượng cho những dãy núi bao quanh đỉnh núi Meru, ngôi nhà của các Thánh Thần. Phải leo lên những cầu thang dốc tới 80 độ mới có thể vào được ngọn tháp trung tâm hàm ý: người thường phải nỗ lực hết mình mới giác ngộ để gặp được thần linh.

Ý tưởng kiến trúc tổng thể của Angkor Wat cũng như sự kỳ công thể hiện trên từng bức phù điêu của khu đền thể hiện rõ sự sùng bái Ấn giáo của vua Suryavarman II nói riêng cũng như của đế chế Khmer nói chung. Chắc hẳn nơi đây xưa kia đã từng chứng kiến những nghi lễ tôn giáo hoành tráng và linh thiêng. Nhưng giờ đây, người ta đổ về Angkor Wat chỉ để ngắm nhìn những phế tích chứ không phải để cảm nhận bầu không khí thánh thiêng tôn giáo ở mảnh đất này. Không thấy nơi nào để thờ tự, chỉ thi thoảng bắt gặp những bàn thờ tạm bợ đặt dưới những bức tượng cũ kỹ. Khách du lịch cũng chẳng mấy ai thắp hương ở những bàn thờ bày ra cho có lệ như vậy.

Tượng Phật trong khu Angkor Wat có kha khá nhưng đa số đều… mất đầu. Trong nhiều năm, những kẻ ăn cắp cổ vật đã chặt đầu cả thần Phật để bán cho những nhà buôn đồ cổ phương Tây. Những gì có thể bán lấy tiền thì đều bị vặt mất, từ đầu rắn thần Naga tới mặt nàng Aspara. Toàn thể khu Angkor khá tráng lệ khi nhìn từ xa nhưng lại gần mới thấy sự xác xơ của nó. Thời gian và cả con người nữa đã phá hủy gương mặt thánh thiêng của Angkor Wat.

Angkor Thom - Sự sống vô thường

Khu kinh đô Angkor Thom được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 12 dưới thời vua Jayavarman VII. Ông vua này sùng đạo Phật đến nỗi xây dựng ở trung tâm của nó một khu đền gọi là Bayon. Khu đền trông như một rừng đá này có 54 ngọn tháp lô nhô, mỗi ngọn tháp đều có 4 mặt Phật quay sang 4 hướng khác nhau với nụ cười trầm tư bí hiểm.

Kiến trúc tổng thể của Bayon được cho là mô tả hình ảnh kỳ diệu trong Phật thoại, khi Đức Phật biến hóa trên không trung thành hàng ngàn Đức Phật quay tròn lấp lánh. 256 gương mặt đá nhìn về 4 hướng khác nhau thể hiện ánh sáng nhiệm màu của Phật pháp soi tỏa bốn phương.

Cấu trúc kỳ lạ của Bayon và toàn thể Angkor Thom cho thấy Phật giáo đã thịnh trị ở Campuchia dưới thời Jayavarman VII, tức cuối thế kỷ 12. Những nghi lễ Phật giáo chắc chắn đã từng được tổ chức linh đình ở khu vực này ngày đó. Nhưng giờ đây, cũng như Angkor Wat, Angkor Thom và Bayon chỉ còn là những khối đá vô tri lạnh lẽo chứ không còn thấy tinh thần ấm áp của đạo Phật. Không khói hương, không thờ tự, không sư sãi… chỉ còn đó những khối đá kỳ vĩ được trạm khắc công phu nhưng đã móc meo và sứt sẹo qua hơn 800 năm lịch sử.

Đi vào Bayon, ngẩng đầu lên chỗ nào cũng chỉ thấy những mặt Phật mỉm cười, nhân từ nhưng khó hiểu. Các nhà nghiên cứu cho rằng đó là nụ cười thấu biết của Đức Phật, nụ cười của người hiểu hết lẽ vô thường của sự sống. 256 gương mặt ấy đã đứng sừng sững như thế trong suốt hơn 800 năm để chứng khiến sự hưng thịnh và suy vọng của một đế chế, chứng kiến một trong những bi kịch diệt chủng dã man nhất trong lịch sử hiện đại.


Miền lý tưởng xa vời


Angkor là một di sản văn hóa, một kỳ quan may mắn còn lại giữa rừng sâu sau những biến động của gần một thiên niên kỷ. Những nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, tôn giáo có thể tìm thấy ở Angkor những bằng chứng vô giá cho những công trình của họ. Khách du lịch đến Angkor để chiêm ngưỡng một vẻ đẹp kỳ lạ, không lung linh rực rỡ nhưng có cái gì đó rất hoài niệm, cổ xưa.

Angkor đẹp thật nhưng, có lẽ sai lầm nếu giờ đây người ta gọi mảnh đất này là thánh địa. Angkor của ngày xưa có thể là thánh địa nhưng bây giờ chắc chắn chỉ còn là phế tích. Lang thang trong khuôn viên mênh mông của Angkor, có đôi khi cũng bắt gặp một vài vị sư áo vàng. Nhưng có đổ vào Angkor 1000 vị sư áo vàng thì cũng không cứu nổi một thực tế rằng: Angkor đã không còn là đất thánh. Không có miền đất thánh nào lại toàn những tượng thánh mất đầu…

Angkor chính là hiện thân của Campuchia, nó như một tấm gương phản chiếu lịch sử Campuchia, phản chiếu toàn bộ những nghịch lý và khổ đau mà dân tộc này phải chịu. Đất nước tôn thờ Phật pháp từ bi đến nỗi không giết cá bằng cách đập đầu cũng chính là nơi hàng trăm ngàn người bị đập vào đầu bằng cuốc xẻng cho đến chết. Đất nước của hoa sen cũng lại chính là đất nước của đầu lâu.

Tha thẩn giữa không gian hoang sơ của Angkor dễ làm người ta nảy sinh hoài niệm về quá khứ. Từ những bức phù điêu còn lại trên các bức tường đá ở Angkor, có thể tưởng tượng lại những nghi lễ huyền hoặc năm xưa. Angkor trong trí tưởng tượng âý sẽ rất khác với Angkor trong hiện thực. Đến Angkor để chợt nhận ra sự bất lực của giáo lý trước sự đói khổ của con người, nhận ra miền lý tưởng vẫn còn ở nơi nào đó rất xa vời so với hiện thực ngày nay.


Khánh Duy

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2009

Cụ Khổng và cái tàu cá


Sáng 10 tháng 11 vừa rồi, Bộ đội Biên phòng Thừa Thiên Huế truy đuổi 16 tàu cá ra khỏi vùng lãnh thổ Việt Nam. Tàu tuần tra của Bộ đội biên phòng cũng đã bắt giữ 1 tàu cá mang số hiệu 14062 trên đó có 13 ngư dân Trung Quốc. Sau đó, quân đội Việt Nam lập biên bản, phạt cảnh cáo và phóng thích ngay con tàu này vào cuối giờ chiều.


Việc tàu Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam đánh cá đã diễn ra không ít nhưng lần này, 17 con tàu đã vào quá sâu, tới khu vực giữa đảo Cồn Cỏ và bờ biển Thuận An, cách bờ có 24 hải lý. Việc lực lượng biên phòng phải vào cuộc, truy đuổi và xử phạt là hết sức đúng đắn và hợp lý.


Nhưng, điều đúng đắn hơn thể hiện trong lời phát biểu của ông Hoàng Xuân Chiến, Chỉ huy trưởng ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng: “Chúng tôi cho là ngư dân Trung Quốc vi phạm hải phận Việt Nam cũng chỉ vì con cá thôi, nên chỉ giải thích rồi cho họ đi. Không phải vì họ đuổi bắt, đâm thủng, phạt vạ tàu mình mà mình trả đũa.”


Câu nói ấy của ông làm tôi nhớ lời cụ Khổng Tử của Trung Quốc, một lời dạy mà ai đã học Nho giáo của cụ đều biết: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là “cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Cụ Khổng còn dạy tiếp: cái gì mình muốn thì hãy làm cho người khác, “mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công.”


Lực lượng biên phòng Việt Nam đã làm thật đúng với lời dạy hiền nhân, Việt Nam không muốn những chuyện đâm tàu, bắt giam, đánh đập ngư dân xảy ra với tàu cá nước mình nên đã không làm thế với tàu Trung Quốc.


Cụ Khổng “hồi sinh”


Khổng Tử là một triết gia, nhà tư tưởng có ảnh hưởng rộng khắp không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước Châu Á khác. Dưới thời Mao Trạch Đông, cụ bị “hắt hủi”, bị coi là tàn tích của chế độ phong kiến cần xóa bỏ. Nhưng, trong vài năm trở lại đây, cụ Khổng được tôn vinh chưa từng thấy ở Trung Quốc.


Bộ Giáo dục Trung Quốc bật đèn xanh cho các đề xuất đưa văn hóa Khổng giáo truyền thống vào giảng dạy ở các trường phổ thông. Các trường Đại học mở các khóa học về Triết học Khổng giáo, thành lập những viện nghiên cứu Khổng tử.


Không chỉ trong nước, tốc độ thành lập các Học viện Khổng Tử ở nước ngoài mới thật kinh ngạc. 3 năm trước, một bài báo trên tờ Newsweek cho biết: “Trung Quốc thông qua một chương trình 10 tỉ đôla để tạo ra 100 Học viện Khổng Tử trên toàn thế giới vào năm 2010.” Thế mà, đầu tháng 11 vừa rồi, một bài trên VietNamNet viết: “cho đến cuối năm 2008, đã có 249 Học viện Khổng Tử được xây dựng trên 78 quốc gia.”


Nếu đúng như vậy thì Trung Quốc thật sự đã tăng tốc quá trình truyền bá giá trị Trung Hoa và Khổng giáo với một quyết tâm đáng kinh ngạc.Học viện mang tên nhà hiền triết để dạy tiếng Hoa và truyền bá văn hóa Trung Quốc, trong đó di sản cụ Khổng góp phần quan trọng.


15 năm trước, ít ai ở Trung Quốc dám nhắc công khai tới các nguyên lý đạo Khổng, ngày nay, người ta nhắc tới lý tưởng của cụ ở khắp nơi. Đặc biệt, quan chức càng thích “tầm chương trích cú” lời cụ. Cụm từ “xã hội hòa hợp” mà chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên ngôn như một học thuyết sau khi nắm quyền năm 2003 là một ý tưởng nguồn gốc từ Khổng Tử. Cụ Khổng cả đời ước ao xây dựng một “thế giới đại đồng”, nơi người người sống với nhau thuận hòa như trong một đại gia đình.


Sinh thời, cụ Khổng đi khắp các nước truyền bá tư tưởng Đức trị, Nhân trị của mình cho các bậc quân vương. Thế nhưng, lời cụ chẳng được đoái hoài, cuối cùng, cụ đành về quê mở trường dậy học. Trước khi mất, cụ rớt nước mắt nói lời cuối với học trò Tử Cống:


- Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy, thầy sắp đi đây.


Cụ Khổng ở dưới suối vàng chắc cũng không thể tưởng tượng ra được, 2500 năm sau, lại có chính thể “đãi ngộ” cụ hoàn hảo tới mức ấy khi coi những lý tưởng của cụ như một trong những nền móng xây dựng xã hội.

Chính quyền Trung Quốc làm “hồi sinh” cụ Khổng cũng có những lý do của nó.


Về mặt đối nội, nhiều tầng lớp nhân dân đã quá bức xúc trước tình trạng tham nhũng, tịch thu đất đai và tha hóa đạo đức của nhiều quan chức. Đạo Khổng chủ trương người cầm quyền phải Đức trị, phải Chính danh, phải Tu thân, phải Yêu dân. Ngược lại, người dân phải Tôn Quân, thiên tử là “con trời”. Vậy nên, đương nhiên, những quan điểm ấy được “hồi sinh” để giúp các nhà chính trị dễ điều hành cường quốc 1,3 tỉ dân.


Về mặt đối ngoại, tư tưởng ngoại giao hòa hợp, hòa bình của cụ Khổng rất hợp với những tuyên ngôn về đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng là “trỗi dậy hòa bình”. Điều ấy rất hợp với lời cụ Khổng dạy Nhiễm Cầu về đối ngoại: “Nếu người ta không phục mình thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi thì làm sao cho họ yên ổn.”


Danh phải chính


Đạo của cụ Khổng có những cái giờ đã bị coi là bảo thủ, là hủ lậu nhưng vẫn còn đó rất nhiều điểm hợp lý, trải qua cả ngàn năm vẫn là “niềm cảm hứng cho đời sau”, “làm cho đức trí con người được nâng cao” theo lời học giả Nguyễn Hiến Lê.


Giờ đây, Trung Quốc tôn vinh lại di sản tư tưởng của cụ cũng tốt. Nếu vua quan ai cũng Nhân, cũng Trí, cũng Quân Tử như cụ dạy thì xã hội Trung Quốc có lẽ sẽ là một hình mẫu để thế giới học tập. Nếu chính sách đối ngoại cũng trên tinh thần “đại đồng”, “sửa văn đức để người ta đến với mình” như cụ dạy, các quốc gia láng giềng khu vực cũng sẽ an vui bắt tay chặt hơn nữa với Trung Quốc.


Nhưng, người nào đã học cụ Khổng cũng phải nhớ đến luận điểm cơ bản, xuyên suốt trong học thuyết của cụ. Đó là Chính Danh, Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành. Cụ cũng dạy: muốn Danh chính thì thân phải chính, muốn thân chính thì ngôn phải chính: nghĩa là lời nói và việc làm phải hợp nhau, không nói nhiều làm ít, nói thế này làm thế khác.


Trung Quốc đã tuyên ngôn lại tư tưởng “xã hội hòa hợp, thế giới đại đồng” của cụ Khổng từ 2500 năm trước. Nếu Trung Quốc làm ngược lại với điều ấy, e rằng lời cụ năm xưa lại ứng nghiệm, mọi việc sẽ không thành nếu ngôn không thuận. Hàng trăm học viện Khổng Tử có thể sẽ không tạo ra hiệu quả truyền bá và ảnh hưởng như mong muốn nếu như Trung Quốc có những hành động ngược với lời Khổng tử.


Tôn vinh đạo Khổng sẽ thực sự hiệu quả từ những điều nhỏ nhất: Trung Quốc không để xảy ra tình trạng đâm tàu, bắt giam và đánh đập ngư dân Việt Nam như trong thời gian vừa qua được nữa.


Khánh Duy

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

Chuyện cặp nhẫn cưới vàng của tha nhân




1.

“Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng” là cuốn sách mới nhất của thầy Nhất Hạnh. Cuốn sách là lời bình giảng của thiền sư Thích Nhất Hạnh về bài kinh “Con sư tử vàng” của thầy Pháp Tạng, một trong những sư tổ của Hoa Nghiêm Tông (tông phái nổi bật trong lịch sử Phật Giáo).

Thầy Pháp Tạng sống ở Trung Quốc vào thế kỷ 7, thời hoàng hậu Võ Tắc Thiên. Nữ hoàng đương thời rất thích nghe thầy giảng. Một hôm, bà mời thầy vào cung. Thầy Pháp Tạng bằng trí tuệ tuyệt vời đã cầm một con sư tử vàng trong cung cấm, coi nó như ví dụ để diễn giải cho Võ Tắc Thiên nghe về toàn bộ giáo lý nhà Phật theo trường phái Hoa Nghiêm.

Lần giở hết cuốn sách này, tôi lại không nghĩ nhiều đến Con sư tử vàng của thầy Pháp Tạng, lại nghĩ về câu chuyện cặp nhẫn cưới vàng của tha nhân.

2.

Có cặp vợ chồng nọ rất giàu có, khi cưới nhau, họ đặt mua hẳn một đôi nhẫn cưới vàng đính kim cương “xịn” rất đắt tiền từ Châu Âu. Đeo một thời gian, thấy đôi nhẫn đẹp quá mà đeo thì phí, cô vợ “trưng bày” đôi nhẫn ấy trong chiếc tủ kính ở phòng ngủ.

Đứa giúp việc một hôm nảy sinh lòng tham lấy cặp nhẫn ấy đem bán rồi bỏ về quê. Anh chồng biết nhẫn mất, tiếc cặp nhẫn kỷ niệm hôn nhân, tát cô vợ vì đã để “hớ hênh” dẫn đến mất kỷ vật. Hình tượng người chồng bỗng sụp đổ trong lòng cô vợ.

Nhẫn mất, tình yêu cũng mất dần. Vài năm sau, họ chia tay…

Nguyên nhân của mọi nguyên nhân có phải chỉ tại cặp nhẫn vàng?

Giáo lý Hoa Nghiêm dạy ta rằng không phải thế.

Đứa giúp việc chỉ nhìn thấy “vàng” ở cặp nhẫn, vàng ở đây là thứ kim loại quý, thứ tài sản bán được nhiều tiền. Cô vợ chỉ nhìn thấy “nhẫn” ở cặp nhẫn, nó là thứ trang sức nghệ thuật đẹp lộng lẫy từ Âu Châu nên phải “trưng bày”. Anh chồng lại chỉ nhìn thấy “cưới” ở cặp nhẫn, đó là kỷ niệm của một tình yêu. Chỉ một cặp nhẫn cưới vàng mà 3 cá nhân ấy nhìn nhận theo 3 cách hoàn toàn khác nhau.

Do nhìn nhận khác nhau mà đứa giúp việc sinh tâm tham ăn cắp nhẫn, cô vợ sinh tâm ái trưng bày nhẫn, anh chồng sinh tâm giận tát vợ. Mâu thuẫn dẫn tới đổ vỡ nẩy sinh từ những hình tượng khác nhau về cặp nhẫn cưới mà mỗi cá nhân đã tự tạo tác trong họ.

Lỗi không phải tại cặp nhẫn cưới vàng, lỗi tại cách mỗi con người nhìn nhận nó. Con mắt chỉ nhìn thấy những gì mà trái tim và cái tâm muốn thấy.

Con người đã chỉ nhìn thấy thế giới hiện tượng, “vàng”, “nhẫn” và “cưới” đều là thế giới hiện tượng hư ảo nẩy sinh trong tâm ý, trong khi bản chất thật của cặp nhẫn cưới vàng ấy đơn giản chỉ là sự kết hợp của những phân tử vàng, Au. Những phân tử Au “hồn nhiên” ấy nào có tội tình gì.

Con người đã tham lam, sân hận, si mê vào một thế giới hiện tượng ảo. Thầy Nhất Hạnh nhiều lần dùng ví dụ xem phim để người đọc thấy sự vô lý trong việc tự huyễn mình vào những biểu tượng không có thật.

“Khi nhìn những hình ảnh trên màn ảnh, dù biết chúng là ảo mà ta vẫn khóc, vẫn buồn, vẫn giận như thường. Đó gọi là vọng tình. Khi yêu hay ghét ai cũng vậy, ta tạo ra một hình ảnh rồi ta yêu, ghét hay giận chính hình ảnh đó.” Đó là “tâm ý sai lầm của ta. Thấy được như vậy rồi, ta sẽ không còn bị những cái giả lừa gạt nữa.”

3.

Giáo lý Hoa Nghiêm không dừng lại ở việc giải thích tâm ý như trong câu chuyện nói trên. Hoa Nghiêm là một hệ tư tưởng triết học vẹn tròn trên cả ba cấp độ: tâm lý cá nhân, bản chất thực thể và lý giải vũ trụ. Những phát hiện mới của khoa học trong lĩnh vực lượng tử và vụ trụ có những điểm trùng hợp kỳ lạ với những phát hiện bằng trực giác của các tổ sư Hoa Nghiêm tông.

Thầy Pháp Tạng là sư tổ lỗi lạc nhất đã hệ thống hóa giáo lý này, “Con sư tử vàng” là bài kinh ngắn nhưng diễn giải đầy đủ những điểm cốt yếu của Hoa Nghiêm. Chính vì thế, dù đã được thầy Nhất Hạnh lý giải cặn kẽ bằng nhiều ví dụ thực tiễn, cuốn sách vẫn trừu tượng và có nhiều thuật ngữ không dễ hiểu với nhiều người.

Tuy vậy, đọc lại một vài lần với sự kiên tâm, cuốn sách trở nên dễ hiểu. Sách dậy: “Đi tìm Niết bàn ở đâu? Tìm ngay trong Sinh tử.” Vậy có lẽ: Đi tìm sự dễ hiểu, đơn giản và minh triết ở đâu? Phải tìm ngay trong sự khó hiểu đó.

Khánh Duy

Theo dấu Cách mạng ở Saint Petersburg




1.

Ông Osho có một lý thuyết chu kỳ 7 năm về tâm tính con người. Ông nói rằng: 21 tuổi ai cũng là kẻ nổi loạn, cũng là nhà cách mạng; 28 tuổi, mọi kẻ nổi loạn đều trở nên ôn hòa; đến năm 35 tuổi, những người cách mạng nhất rồi cũng trở thành phản cách mạng.

Tôi thấy lý thuyết của Osho khá đúng với mình, qua tuổi 28, tôi không còn hứng thú nhiều với những ý niệm về Cách mạng.

Nhưng đến Saint Petersburg, tôi vẫn đi tìm, vẫn lần theo những dấu vết của Cách mạng. Thành phố chỉ có lịch sử hơn 300 năm tuổi này lại là thành phố nổi tiếng ở châu Âu bởi những cuộc Cách mạng. Ít nhất đã có 3 cuộc Cách mạng, chính xác hơn là 4 nếu kể cả cuộc khởi nghĩa nổi tiếng vào tháng Chạp năm 1825.

Xe dẫn chúng tôi xuôi theo đại lộ vào trung tâm thành phố bên bờ dòng sông Neva. Dòng sông đẹp, thơ mộng và phẳng lặng quá, có ai ngờ, sóng cách mạng nhiều năm đã nổi ở hai bờ.

2.

Tượng đài Piốt Đại Đế cưỡi con ngựa tung vó hùng tráng nằm giữa Quảng trường nhìn thẳng ra sông Neva. Chính tại Quảng trường Thượng nghị viện này đây, vào năm 1825, những trí thức và quý tộc tiến bộ nhất đã làm cuộc khởi nghĩa đòi dân chủ dưới chế độ của Nga hoàng Nicolas I. Cuộc khởi nghĩa tất nhiên bị Nga hoàng đàn áp và những người cấp tiến chủ mưu đã bị treo cổ, số còn lại bị đày ra Siberia.

Rất nhiều trong số những khởi nghĩa là bạn bè của nhà thơ Pushkin, những vần thơ tự do của nhà thơ đã được lưu truyền trước đó đã góp phần tạo cảm hứng cho khởi nghĩa.

Gió, gió đâu, cuộn ao tù thành thác,
Phá tan tành đập chắn âm u!
Giông tố đâu - hình ảnh của tự do,
Hãy phả lên mặt nước tù u uất!

Bản thân Puskin thời điểm đó không có mặt ở Saint Petersburg, ông đang bị đi đày do những vần thơ tự do. Năm 1826, khi được cho phép trở về thành phố, Pushkin đã vào yết kiến Nga hoàng. Nicolas I hỏi Pushkin rằng liệu nếu năm 1925 có mặt ở đây thì ông có tham gia vào nhóm làm phản không.

Nhà thơ kiêu hãnh đáp:
- Nhất định là có, thưa bệ hạ! Tất cả bạn bè của hạ thần đều can dự vào mưu mô này cho nên chắc hạ thần không thể không tham gia được.

Nhà thơ sau đó bị quản thúc tiếp và nước Nga hậu khởi nghĩa bước vào một giai đoạn suy sụp, Nicolas I đã ban hành những chính sách bảo thủ và áp đặt trật tự quân đội khắp nơi.
3.

Xe đưa chúng tôi đi qua cung điện Mùa đông bên bờ Neva, nơi giờ đây là bảo tàng Ermitage. Cung điện xa hoa lộng lẫy này đã chứng kiến trọn vẹn những cuộc Cách mạng sau này trên đất Nga.

Vào ngày chủ nhật lịch sử, 9-1-1905, 140 ngàn người đã biểu tình qua Cung điện này để dâng Nga hoàng bản thỉnh nguyện. Nga hoàng ở đâu không biết, chỉ thấy kỵ binh, cảnh binh xả súng bắn vào đoàn biểu tình. Ngày Chủ nhật đẫm máu kết thúc với 1000 người chết và 5000 người bị thương.

Cuộc Cách mạng bi thảm ấy sau này được ghi vào lịch sử với cái tên Cách mạng 1905.

Nước Nga phải chờ đợi thêm 12 mùa tuyết rơi nữa mới có một cuộc Cách mạng thứ hai. Ngày 23-2-1917, khi thời tiết xuống tới âm 43 độ, 200.000 người đã xuống đường biểu tình dọc theo bờ Neva dày đặc tuyết để đòi dân chủ, tự do, cơm ăn áo mặc. 1300 người ngã xuống để có được một Chính phủ lâm thời gồm đại diện của nhiều đảng phái thuộc tất cả các phe ở Nga: quý tộc, tư sản, vô sản…

Gần 100 năm sau, những câu thơ của Pushkin mới linh ứng:

Hỡi đồng chí hãy vững lòng tin tưởng:
Sao hạnh phúc nguy nga rồi hiện sáng,
Cả nước Nga sẽ bừng tỉnh cơn mê,
Ngày mai đây hậu thế viết tên ta
Trên đống vụn của chính quyền độc đoán.

Đêm đó, Nga hoàng Nicolas II từ ngôi chấm dứt 300 ngự trị của dòng họ Romanov, trước đó, ít người nghĩ rằng đế chế quyền lực, xa hoa ấy lại có thể sụp đổ nhanh chóng đến vậy chỉ sau 100 giờ biểu tình.

4.

Những hạt tuyết đầu mùa bắt đầu rơi trên khắp thành phố Saint Petersburg. Mưa và tuyết khiến chúng tôi chỉ có thể đi qua chứ không dừng lại chụp ảnh được ở những di tích quan trọng. Người dẫn đoàn chỉ cho chúng tôi từ phía xa nhà ga tầu hỏa nơi Lenin đã xuống vào tháng 4 năm 1917 sau một thời gian dài lưu vong ở nước ngoài.

Nếu Lenin không về nước thời gian ấy, có lẽ, cuộc Cách mạng tháng 10 đã không xảy ra và lịch sử đã đi theo một hướng khác.

Từ bên này bờ Neva, phía Cung điện Mùa đông, tôi đã nhìn thấy đỉnh nhọn nhô lên của Pháo đài Peter-Pavel lịch sử ở bờ kia, công trình đầu tiên của thành phố Saint Petersburg. Nơi đây là nơi cất giữ vũ khí khổng lồ của Chính phủ lâm thời. Vào đêm trước Cách mạng, Trotsky đã một mình đến Pháo đài để thuyết phục binh lính giữ đồn đứng về phe vô sản. Không tốn một viên đạn và mất một giọt máu, Trotsky đã thành công. Nếu không, lịch sử có khi đã khác.

Nhưng lịch sử không có chữ nếu, Cách mạng đã xảy ra vào đêm 25-10-1917 theo lịch Nga cũ.

Xe lại đi qua chiến hạm Rạng đông, con tàu này khá hoành tráng đúng như trí tưởng tượng của tôi. Mưa tuyết nhưng chúng tôi cũng kịp nhẩy ra khỏi xe để chụp ảnh tàu. Vào đêm Cách mạng, Chiến hạm đã bắn những phát đại bác cảnh cáo để giai cấp vô sản tiến vào chiếm Cung điện Mùa đông nơi những thành viên nội các Kerensky đang trú ngụ.

Kỳ lạ thay, một cuộc cách mạng vô sản đã diễn ra sau một cuộc cách mạng tư sản chỉ có 8 tháng, diễn ra ngay ở mắt xích yếu nhất của CNTB. Thế nên phương Tây gọi cuộc Cách mạng ấy là “quái thai của lịch sử”. Giảng viên lịch sử dậy ở Nga đi cùng đoàn nói với chúng tôi rằng, giờ đây, sách lịch sử Nga cho rằng cuộc cách mạng ấy đơn thuần là “một cuộc đảo chính”.

Đúng 100 năm trước cuộc Cách mạng ấy, Pushkin viết bài thơ “Gửi các đồng chí”, nhà thơ mong muốn:

Phanh áo ghi-lê mà không kinh hoảng
Những tai ương khủng khiếp ụp lên đầu.

Mong muốn vẫn chưa thành hiện thực, quá nhiều Cách mạng nhưng những tai ương khủng khiếp nhất vẫn đang chờ để ụp lên đầu nước Nga.

5.

Cuộc Cách mạng năm 1825 kết thúc bằng các giá treo cổ thít vào những người cách mạng và cả nước Nga. Cuộc cách mạng 1905 kết thúc bằng quảng trường ngập máu. Cuộc cách mạng tháng 2-1917 chỉ tồn tại được vẻn vẹn 8 tháng tuổi còn cuộc cách mạng tháng 10 chưa tạo được thành quả nào đáng kể thì đã xuất hiện một “Sa hoàng mới”: Stalin.

Lịch sử cách mạng Nga dường như chỉ thay thế chế độ chuyên chế này bằng chế độ chuyên chế khác. Pushkin chắc cay đắng lắm, bức xúc lắm với đồng bào khi viết bài thơ “Người gieo giống tự do trên đồng vắng”

Là người gieo giống tự do trên đồng vắng
Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi
Nhân danh thanh bình, cứ gậm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc
Tự do đâu cho một bầy súc vật?
Chúng chỉ cần cắt xẻo, cạo lông
Đời nối đời, di sản chúng nó chung
Là ách nặng đeo chuông và roi vọt

Không bao giờ có một cuộc cách mạng thành công thật sự nếu những công dân trong xã hội không có ý thức tự do và tự xây dựng những thiết chế hợp lý để bảo vệ tự do. Mặt trời của thi ca Nga đã gọi những đồng bào mình là một “bầy súc vật” không hiểu gì về tự do, thế mà ông vẫn được dựng tượng đài ở khắp nơi. Nhưng tinh thần tự do Pushkin chỉ tồn tại trong địa hạt tư tưởng, nước Nga hiện thực gần 200 năm sau khi ông mất vẫn chưa hoàn toàn “bừng tỉnh cơn mê”.

6.

Năm 21 tuổi, tôi đặc biệt say mê Cách mạng Pháp, tôi thuộc lòng những đoạn nói về cuộc Cách mạng ấy trong cuốn Những người khốn khổ của Huygo. “Muốn hiểu cách mạng là gì, hãy gọi nó là tiến bộ, muốn hiểu tiến bộ là gì, hãy gọi nó là tương lai, vậy thực chất cách mạng là gì, là quần chúng đi mua tương lai, mua bằng gì, mua bằng máu.”

Năm 28 tuổi, tôi thích một câu khác, không nhớ rõ đọc ở đâu: “Cách mạng được hoài thai bởi những thiên tài, thực hiện bởi những kẻ cuồng tín còn thành quả của nó thì bị những kẻ cơ hội lợi dụng.”

Ở Saint Petersburg, tôi lại thấy một lần nữa và rõ ràng hơn sự vô nghĩa của những cuộc Cách mạng lật đổ đã diễn ra trên đất Nga. Những cuộc Cách mạng chỉ tìm cách đạp đổ thật nhanh chế độ độc tài cũ nhưng lại không tìm cách xây dựng một hệ thống cân bằng để ngăn chặn lịch sử lập lại. Kết quả là, Cách mạng chỉ như một con lắc, đi từ trạng thái cực đoan này sang trạng thái cực đoan khác, tạo ra những thể chế mới còn khủng khiếp hơn những thế chế cũ.

Nhưng, tôi vẫn nuối tiếc những lý tưởng tự do đẹp đẽ trong những thời khắc ban đầu huy hoàng của Cách mạng. Có một câu rất hay “Tự do là ngọn lửa đầu tiên thổi bùng những đám cháy cách mạng. Cũng là cơn hồng thủy cuối cùng dìm tắt những đám cháy ấy.”

Vì tự do, con người làm cách mạng, nhưng chính sự mất tự do trong thể chế mới lại làm cho cảm hứng cách mạng ấy nhanh chóng vùi tắt.

Osho viết lý thuyết chu kỳ 7 năm của ông trong một cuốn sách có tên: “Trưởng thành – Trách nhiệm là chính mình”.

Còn tôi vẫn phân vân không biết khi con người tự đánh mất đi lý tưởng Cách mạng để trở thành những kẻ ôn hòa hay thậm chí phản cách mạng thì đó là trưởng thành hay tha hóa?

Khánh Duy

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

Cuộc khủng hoảng chia đôi thế giới


Bài đăng 2 kỳ trên TVN




Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vừa qua đã chia đôi thế giới xét trên cả khía cạnh tư tưởng hệ lẫn hiện thực. Trung Quốc đã nổi lên như một đối cực chắc chắn của Mỹ.

Khúc khải hoàn ca của hệ tư tưởng Mỹ

20 năm trước, năm 1989, học giả Francis Fukuyama công bố bài luận nổi tiếng thế giới “Sự cáo chung của lịch sử”. Trong bối cảnh tan rã của Liên Xô và Đông Âu, Fukuyama đã “cảm thấy một cái gì đó rất căn bản đã diễn ra trong lịch sử thế giới”, đó là ‘khúc khải hoàn ca lừng lẫy” của tư tưởng tự do phương Tây trước các ý thức hệ khác.

Fukuyama nhận định rằng lịch sử đã kết thúc ở mô hình tự do dân chủ phương Tây và thực chất đã kết thúc trong địa hạt tư tưởng bởi Hegel từ năm 1806 với những lý tưởng cao đẹp của cách mạng Pháp. Những diễn biến trong giai đoạn bức tường Berlin sụp đổ đó đã củng cố tính vững chắc về mặt thực tiễn cho nhận định của Fukuyama.

Năm 2009, chúng ta cũng đang “mơ hồ cảm thấy có một quá trình nào đó to lớn hơn đang vận động” như Fukuyama nhận định 20 năm trước. Tiếc là, chiều hướng của sự vận động có vẻ như trái với những kết luận của Fukuyama.

Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nổ ra, thế giới vẫn dường như vận động theo một quỹ đạo đã được lập trình mặc định bởi phương Tây mà đứng đầu là Mỹ. Mỹ đã tạo ra sân chơi và xác lập luật chơi theo hệ giá trị của họ trong quá trình dài suốt hơn 60 năm qua nếu kể từ thời điểm sau Thế chiến II.

Những mốc quan trọng trong quá trình xác lập giá trị Mỹ có thể bắt đầu từ năm 1944 với hội nghị Bretton Wood và xác lập mạnh mẽ vào năm 1988 với Đồng thuận Washington. Tinh thần chung của hệ giá trị ấy là tự do, tư nhân hóa và phi điều tiết. 2 thập kỷ của các Hiệp định thương mại tự do hậu bức tường Berlin tiếp tục củng cố hệ tư tưởng ấy.

Nước Mỹ và phương Tây đã trải qua giai đoạn thịnh vượng chưa từng thấy, Fukuyama đã đúng và tiếng kèn trompet đã ngân vang bài ca chiến thắng cho Mỹ và phương Tây suốt 20 năm sau chiến tranh lạnh. Ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn còn những hệ giá trị khác biệt nhưng quan niệm chung vẫn là rồi chung cuộc, tất cả sẽ phải quy tụ dưới chân tượng nữ thần tự do của Mỹ.

“Ông thầy” đã sai


Nhưng, cú sụt trên thị trường nhà đất Hoa Kỳ và những công cụ tài chính phái sinh đã làm rung chuyển nền kinh tế Mỹ. Cú sốc tài chính không chỉ làm rạn nứt nền kinh tế, nó đã làm rạn nứt một tư tưởng hệ. Ngay cả đến một môn đồ suốt đời tôn thờ chủ nghĩa tự do như cựu chủ tịch FED Alan Greenspan cuối cùng còn phải cay đắng nhận định rằng những niềm tin của ông đã bị lung lạc.

Mới chỉ cách đây 2 năm, bộ trưởng tài chính Mỹ dưới thời Bush còn đang say sưa thuyết giảng về lý tưởng tự do ở Thượng Hải. “Thầy giáo” nói: ““Một thị trường tài chính mở cửa, cạnh tranh và tự do hóa, sẽ có thể phân bố các nguồn tài nguyên hiếm hoi một cách hiệu quả, bền vững, và thịnh vượng hơn một thị trường có sự can thiệp của chính phủ”

Rồi khủng hoảng nổ ra, phó thủ tướng Trung Quốc Vương Kỳ Thâm nói với đồng nghiệp Mỹ: “Thầy giáo bây giờ gặp nhiều vấn đề rồi.” Còn chủ tịch Uỷ ban Kiểm tra Ngân hàng Trung Quốc thì nói: “Cuối cùng, chúng tôi đã hiểu được rằng nhiều điều mà ông thầy dậy chúng tôi là sai lầm” Từ bao giờ, Trung Quốc đã đủ quyền mỉa mai “ông thầy” Mỹ.

Đặc trưng của một số quốc gia như Trung Quốc hay Nga là nhà nước nắm quyền lực tập trung về chính trị, giữ kiểm soát các ngành công nghiệp quan trọng, hỗ trợ vật chất và chính sách cho các tập đoàn nhà nước, can thiệp sâu bằng nhiều biện pháp vào nền kinh tế. Có thể tạm gọi nó bằng một cái tên là chủ nghĩa tư bản tập quyền nhà nước.

Mỹ và phương Tây vẫn chẳng tiếc lời phê phán mô hình trên và cổ vũ cho một chủ nghĩa tư bản tự do thị trường. Quan niệm phổ thông luôn là: nhà nước luôn ngu ngốc và chỉ có thị trường mới đủ thông minh để giải quyết mọi vấn đề và đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế.

Khủng hoảng 2008 ập đến, mọi thứ bổng đổi thay. Giờ đây, Mỹ và phương Tây lại mua cổ phần, quốc hữu hóa các định chế tài chính, tập đoàn xe hơi; bỏ tiền cấp cứu nhiều ngành công nghiệp gặp khó khăn; thắt chặt kiểm soát và điều tiết hệ thống tài chính. Nước Mỹ có đang làm cái mà họ vẫn phê phán Trung Quốc?

Chẳng thế mà, tờ Daily Telegraph giật tít mỉa mai: “Chào các đồng chí, giờ chúng ta đã trở thành xã hội chủ nghĩa”

Niềm tin vào chủ nghĩa tư bản tự do ở Mỹ bị suy suyển thì ngược lại, ở Trung Quốc, hệ giá trị “màu sắc Trung Quốc” như vậy lại được củng cố. Buồn cười là, câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình để ủng hộ chủ trương cải cách: “Mèo trắng hay mèo đen miễn bắt được chuột ấy là mèo tốt” giờ đây lại được sử dụng với mục đích ngược lại. Các biện pháp Trung Quốc “bảo thủ” đang dùng chưa chắc đã đúng với sách giáo khoa kinh tế chính trị của Mỹ nhưng ‘miễn là bắt được chuột” thì ta cứ dùng.

Trung Quốc nhìn thấy những hậu quả của mô hình Mỹ và giờ đây giới tinh hoa cũng phải tự hỏi đâu là giới hạn của đổi mới và cải cách? Câu hỏi đó xác định tương lai Trung Quốc và cuộc khủng hoảng này có thể sẽ làm Trung Quốc siết lại thêm nữa những giới hạn đó.

Vòng khuynh loát của Trung Quốc

Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua đã làm xói mòn sức mạnh kinh tế tài chính của Mỹ. Đó là sự xói mòn vật chất, nhưng không chỉ thế, sức mạnh tinh thần Mỹ là hệ tư tưởng tự do cũng đã bị xói mòn, rạn nứt.

Fukuyama, cha đẻ của quan niệm lịch sử cáo chung, trong một bài luận gần đây đã phải thừa nhận rằng: hai giá trị quan trọng nhất là Tự do và Dân chủ kiểu Mỹ đang bị thách thức chưa từng thấy. Nếu nước Mỹ không tìm lại được thứ quyền lực mềm ấy, nước Mỹ sẽ phải nhường sân khấu cho những nhân vật khác.

Nhật vật đó có thể là ai khác nếu không phải là Trung Quốc. Sự nổi lên và bành trướng của Trung Quốc với một hệ giá trị khác đã biến vết rạn trong tư tưởng của Mỹ trở nên sâu sắc thêm trong hiện thực.

Trung Quốc đã phát triển tốc độ nhanh trong 30 năm qua nhờ mô hình chủ nghĩa tư bản có sự can thiệp mạnh của nhà nước. Mới đây, Nhân dân Nhật Báo Trung Quốc khôn khéo trấn an phương Tây: “không thể có chuyện mô hình Trung Quốc sẽ được lan truyền rộng rãi. Phương Tây chẳng cần phải lo lắng về điều này…”

Tờ Nhân Dân của Trung Quốc vội vàng bác bỏ khả năng Trung Quốc muốn “xuất khẩu” mô hình của mình như Liên Xô ngày trước để tạo ra đối cực với mô hình Mỹ, thanh minh rằng nước này không có ý đồ ảnh hưởng địa chính trị tới các quốc gia đang phát triển khác bằng mô hình của mình.

Nhưng nhìn những bước chân rầm rập của người Trung Quốc ra khắp thế giới trong khoảng thời gian gần đây, người ta thấy điều ngược lại. Trung Quốc đã và đang phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ của mình bằng nhiều phương cách từ viện trợ tới đầu tư lên các quốc gia láng giềng gần gũi như Lào, Campuchia, Myanmar…. cho tới những quốc gia ở Châu Phi xa xôi. Trung Quốc đã trỗi dậy và còn đang mở rộng vòng khuynh loát của mình với một tốc độ và cường độ đáng nể phục.

Nửa đùa nửa thật, báo chí phương Tây tự hỏi liệu có đến một thời điểm mà thế giới sẽ đi theo “Đồng thuận Bắc Kinh” chứ không còn theo “Đồng thuận Washington” nữa. Tinh thần của Đồng thuận ấy chắc sẽ là: tăng tập quyền và điều tiết mạnh hơn, ngược với Đồng thuận cũ.

Bắc Kinh sẽ đi viện trợ, cho vay khắp thế giới với điều kiện các quốc gia đi vay phải điều tiết mạnh hơn, quản lý chặt hơn và nhà nước hóa. Đương nhiên, cũng như Mỹ, Nhật Bản, phương Tây viện trợ bây giờ, điều kiện đi kèm sẽ là sự thâm nhập của công ty và hàng hóa Trung Quốc vào tài nguyên và thị trường nội địa.

‘Đồng thuận Bắc Kinh” có thể là chuyện đùa phi hiện thực nhưng những động thái viện trợ, cho vay, tài trợ như kể trên của Trung Quốc với các nước nghèo hơn là chuyện thật sờ sờ trước mắt. Mà đâu chỉ nước nghèo, đừng quên Trung Quốc chính là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Bán kính của vòng khuynh loát ngày càng dài hơn khiến không ít người mơ hồ cảm thấy bóng dáng của một trật tự mới đang manh nha định hình trong thế giới hiện thực.

Bình minh của lịch sử

Cuộc khủng hoảng Made in America này đã làm cho nước Mỹ ngậm ngùi đi xuống còn Trung Quốc lại đang phơi phới đi lên. Phóng tầm mắt nhìn vào tương lai, có thể thấy Mỹ - Trung sẽ là hai cực lớn nhất trong một bàn cờ có thêm các cực khác nhỏ hơn. Xét trên khía cạnh cân bằng chính trị quốc tế, cuộc khủng hoảng này sẽ là điểm khởi phát cho một thế giới chia đôi như vậy. Mỹ sẽ không còn nắm quyền bá chủ được nữa.

Kết luận trong báo cáo mới đây của Hội đồng tình báo Quốc gia Mỹ về tương lai củng cố cho nhận định đó: “Khủng hoảng mở đầu tiến trình tái cân bằng nền kinh tế toàn cầu. Của cải sẽ tập trung nhiều hơn vào tay nhà nước.”

Câu “của cải sẽ tập trung nhiều hơn vào tay nhà nước” có thể ám chỉ sự nổi lên của Trung Quốc trong tương quan đối trọng với Mỹ, của mô hình tư bản tập quyền nhà nước đối trọng với mô hình tư bản thị trường tự do.

Trong một thế giới đang ngày càng phực hợp và hợp tác hơn, sẽ là không hoàn toàn chính xác nếu quy giản nó về thành cuộc cạnh tranh giữa hai thế lực đối nghịch với hai tư tưởng hệ như thời chiến tranh lạnh. Nhưng, xét trên một khía cạnh nào đó, một quy giản như vậy có thể cho ta một khuôn khổ hình dung dễ dàng hơn vào thế giới thực.

Francis Fukuyama viết trong bài luận năm 1989 rằng chúng ta đang ở giai đoạn hoàng hôn của lịch sử nhưng đến câu cuối cùng, ông lại phân vân: “Có lẽ chính cái viễn cảnh buồn chán kéo dài hàng thế kỷ như thế khi lịch sử cáo chung, sẽ làm cho lịch sử một lần nữa bắt đầu.” Quả đúng thế, lịch sử lại đang bước sang vào một buổi bình minh mới nơi chủ nghĩa tự do theo mô hình Mỹ đang phải đối mặt với thách thức từ Trung Quốc và mô hình mang màu sắc của họ.

Trật tự chia đôi sẽ dẫn thế giới này đi tới kết cục như thế nào? Liệu đây có phải là cuộc chiến cuối cùng của lịch sử trước khi thật sự kết thúc? Trong giai đoạn nhá nhem, tranh tối tranh sáng này của buổi bình minh, ngay cả trật tự mới cũng chưa được nhìn thấy rõ ràng thì những câu hỏi ở tương lai xa như trên chưa thể trả lời được.

Nhưng có một điều đúng như báo chí phương Tây nhận định, “các lực lịch sử đang làm chuyển dịch trọng tâm thế giới ra xa dần nước Mỹ”. Chắc chắn, cuộc khủng hoảng 2008 là một yếu tố chủ lực góp phần tái cấu trúc lại để tạo ra một trật tự thế giới mới trong đó Trung Quốc tạm thời trở thành một cực quan trọng trong thế giới hiện thực.

Khánh Duy




Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2009

Thành công: câu chuyện của các cơ hội?

Cuốn sách mới nhất của tác giả non-fiction hàng đầu nước Mỹ Malcom Gladwell có tên: Outliers: Story of Success (Những kẻ xuất chúng: Câu chuyện của sự thành công). Nói một cách chính xác nhất thì, Gladwell không kể những câu chuyện thành công mà kể câu chuyện của những cơ hội.

Mái tóc xoăn tít dựng ngược, gương mặt gày gò ngộ nghĩnh, Malcom Gladwell có cái thần của một đứa trẻ nghịch ngợm hơn là một tác giả sách nghiên cứu đã 45 tuổi. Trông ông như một đứa trẻ ham khám phá, hay táy máy, lục lọi mọi thứ để tìm hiểu về thế giới xung quanh.

Người làm sao của chiêm bao làm vậy. Malcom Gladwell giữ nguyên cái nhìn trẻ thơ đó trong những cuốn sách của ông. Mỗi cuốn sách là một cuộc khám phá vào một thế giới chưa biết, một cuộc phiêu lưu đầy tò mò và lý thú nhằm kiếm tìm quy luật từ những sự kiện, hiện tượng tưởng như không liên quan. Gladwell viết sách non-fiction (phi hư cấu) mà đọc nhiều đoạn tưởng ông đang viết tiểu thuyết.

Có lẽ một phần vì vậy, nên sách của Gladwell luôn nằm trong danh sách bán chạy nhất. Ông là một trong số rất ít những tác giả phi hư cấu có được cái diễm phúc là: người đọc mong chờ mỗi cuốn sách mới của ông. Người ta chỉ chờ đợi điều gì khi họ biết chắc rằng ở đó luôn chứa đựng điều mới mở, không ai hồi hộp mong chờ những cái đã cũ. Gladwell được đón đọc bởi ông luôn nói những điều mới mẻ theo những cách thức mới mẻ.

Trong cuốn sách mới nhất có tên Outliers (Những kẻ xuất chúng), Gladwell lại một lần nữa làm được điều đó.

Món quà mang tên Cơ Hội

Trong vô số những cuốn sách, bài báo viết về những người thành đạt, ta bao giờ cũng bắt gặp một câu chuyện có phần na ná như nhau. Một “người hùng” trưởng thành từ môi trường gian khó, nhưng bằng nỗ lực và trí tuệ phi thường đã vượt qua bao giông gió để vươn tới thành công. Từ chủ tịch các tập đoàn lớn tới các chính trị gia lỗi lạc, từ văn nghệ sỹ tới các nhà khoa học lừng danh, câu chuyện thành công của họ bao giờ cũng nằm trong một khuôn mẫu đã cũ, thành công là kết quả của những yếu tố mang tính cá nhân.

Thành đạt đồng nghĩa với giỏi giang, thông minh, trí tuệ, tài năng, đam mê, chăm chỉ, kiên định, quyết tâm… còn những kẻ thất bại thiếu một vài hoặc tất cả các yếu tố đó. Những kẻ xuất chúng (outliers) đương nhiên có tố chất ăn đứt những kẻ ngoài rìa (outsiders)

Với Outliers, Gladwell khẳng định rằng thực tế không hoàn toàn như vậy. Ông tìm cách xóa bớt lớp son phấn mà những người kể chuyện đã tô vẽ lên khuôn mặt những người thành đạt. Hóa ra, khoảng cách giữa outliers và outsiders đôi khi chỉ mong manh đến mức một cái kim cũng chui lọt.

Ngôi sao khúc côn cầu Canada Scott Wasden có cơ hội tham gia trận chung kết lịch sử chỉ đơn giản vì anh ta sinh vào… tháng Giêng. Nếu không may sinh vào tháng 12 thì có lẽ anh ta đã ngồi ngoài đường biên để xem trận đấu. Ngôi sao của chương trình Ai là Triệu Phú Chris Langan với chỉ số IQ lên tới 197 lại chỉ ngồi nhà “chăn ngựa”… Gladwell kể lại những câu chuyện lạ lùng với những diễn giải lạ lùng chỉ để chứng minh cho chúng ta rằng: thành công là câu chuyện của những cơ hội chứ không đơn giản phụ thuộc vào năng lực cá nhân.

Từ Bill Gates, Bill Joy tới ban nhạc The Beatles, Gladwell truy tìm dấu vết của những cơ hội độc nhất vô nhị, những may mắn lạ kỳ mà họ có được để thành công. Gladwell viết: “Chúng ta đều biết những kẻ thành công như những cây sồi vươn lên từ những hạt mầm cứng cỏi. Nhưng liệu chúng ta có hiểu biết đủ nhiều về thứ ánh sáng mặt trời đã sưởi ấm cho chúng, về thứ đất đai mà trong đó chúng cắm sâu bộ rễ, và cả những con thỏ hay thợ rừng mà chúng đủ may mắn tránh thoát.”

Có không ít những cây sồi nảy sinh ra từ những quả sồi cứng cáp không kém, nhưng chúng đã thiếu mất môi trường và sự may mắn để vươn lên. Cũng có không ít những cá nhân có đầy đủ tố chất để thành công nhưng họ không thành đạt bởi những lý do tương tự. Những truy dấu của Gladwell minh chứng rằng “thành công đúng hơn là một món quà, kẻ xuất chúng là những người được trao tặng các cơ hội…”, tất nhiên, họ phải “đủ nội lực và trí não để nắm bắt các cơ hội ấy…”

Lực đẩy từ cộng đồng và xã hội

Outliers đương nhiên vẫn bán chạy như những cuốn trước của Gladwell nhưng có vẻ như nó bị chỉ trích nhiều hơn. Một số tờ báo nổi bật ở Mỹ và Anh phê bình phương pháp luận của Gladwell, cho rằng ông đơn giản hóa hiện thực phức tạp bằng những quy luật và kết luận “như đúng rồi”. Số khác nhận định cuốn này của Gladwell dựa trên chỉ một số ít dẫn chứng chỉ của nước Mỹ và những dẫn chứng đó lại dễ bị lái theo logic tư duy chủ quan của tác giả. Tờ Austin American-Stateman còn gọi cuốn này là “sự kiệt quệ rõ ràng trong phương pháp luận ưa thích” của Gladwell.

Thật ra không khó lắm để tìm ra một vài dẫn chứng để phản biện lại các kết luận của Gladwell. Ví dụ, Gladwell cho rằng ban nhạc Beatles thành công một phần quan trọng do họ có được cơ hội vàng để chơi nhạc liên tục 8 tiếng một ngày trong suốt thời gian dài ở Hamburg. Hơn 10 000 giờ biểu diễn đó đã giúp Beatles có được sự thành thục và phong cách khác hẳn các ban nhạc khác. Nhưng có rất nhiều ban nhạc như ABBA, Modern Talking.. không có được cơ hội Hamburg sao họ vẫn thành công?

Nhiều chỉ trích nhắm vào Outliers không phải không có lý. Chỉ có điều, Gladwell không viết một cuốn sách để công bố những kết luận mang tính khoa học. Gladwell chỉ khảo sát nhiều công trình văn hóa, tâm lý và xã hội học của người khác để viết ra những cuốn sách mang các thông điệp bất ngờ, lạ lẫm và đầy thách thức. Gladwell là một nhà truyền thông bậc thầy chứ không phải một nhà khoa học bậc thầy.

Gladwell viết ra nhiều ý tưởng trong Outliers và mỗi cá nhân có thể rút ra những bài học rất khác nhau sau khi đọc sách. Nhưng khi được hỏi thực chất thì ông muốn nói gì trong cuốn Outliers, Gladwell đã trả lời: “Những gì cộng đồng, xã hội có thể làm cho mỗi cá nhân cũng quan trọng không kém những gì họ tự làm cho chính bản thân mình. Thông điệp tưởng đã cũ mòn đó vẫn chứa đựng chân lý mạnh mẽ.”

Nếu như một cuốn sách hay là cuốn sách khiến người đọc phải thay đổi suy nghĩ và nhìn nhận thế giới này theo một nhãn quan mới thì Gladwell đã thành công với Outliers, cuốn sách nổi bật thứ 3 của ông. Bắt đầu với Điểm bùng phát viết về những sự kiện phi thường, tiếp theo là Trong chớp mắt viết về những khoảng khắc phi thường và lần này là Những kẻ xuất chúng hay những con người phi thường, có thể coi Gladwell là nhà nghiên cứu những hiện tượng phi thường. Điều phi thường nhất là Gladwell luôn khiến người đọc phải chờ đợi những cuốn sách phi thường mới của ông.

Khánh Duy