Thứ Ba, 23 tháng 12, 2008

Nước Mỹ hỗn loạn hậu 11/9 qua hồi ký cựu GĐ CIA




Nước Mỹ hỗn loạn hậu 11/9 qua hồi ký cựu GĐ CIA

http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc//5654/index.aspx

“Tenet cố tình đổ tội cho người khác. Đừng mua sách!” Tờ Washington Post giật tít như vậy ngay sau khi cuốn hồi ký “Mắt bão” của cựu giám đốc CIA George Tenet ra mắt. Thế nhưng, sách của Tenet vẫn bán chạy. Người dân tò mò muốn biết nhân vật số 1 của tình báo Mỹ giải thích thế nào về sự kiện 11 tháng 9 và cuộc chiến Iraq. Còn chính giới Mỹ thì tranh cãi không ngớt xung quanh những luận điểm của ông.

Rìu và xe ủi

Trong Mắt bão, Tenet đã viết một đoạn rất thú vị về diễn biến trong nội bộ tổ chức Al-Qaida khi bàn âm mưu thực hiện 11/9. Ý tưởng để máy bay đâm vào tòa tháp đôi là của Khakid Sheikh Mohammed nhưng tên này chỉ đề xuất ăn trộm một máy bay nhỏ chất đầy thuốc nổ. Theo những gì kể lại, Bin Ladin đã hỏi:

“Tại sao lại phải dùng rìu trong khi có thể dùng hẳn xe ủi?”

Chính tay Bin Ladin đã sửa lại kế hoạch, thay máy bay thuốc nổ bằng máy bay thương mại với rất nhiều hành khách.

“Xe ủi” đã là phẳng Trung tâm thương mại thế giới, giết chết 3000 người và đẩy nước Mỹ vào một giai đoạn khốc liệt nhất hậu chiến tranh Lạnh. Đương nhiên, tâm điểm của mọi lời chỉ trích nhắm vào cơ quan tình báo Mỹ CIA vì họ đã không thể phát hiện ra âm mưu khủng bố “như trong phim” này của Bin Ladin và đồng bọn.

“Xe ủi” đã vĩnh viễn đổi thay não trạng của chính giới và người dân Hoa Kỳ. Từ nay, nước Mỹ không còn là quốc gia “bất khả xâm phạm”, ngoài tầm tấn công của kẻ thù nhờ vị trí địa lý bên kia đại dương. Từ chỗ “thờ ơ” với các nguy cơ, nay người Mỹ nhìn đâu cũng thấy khủng bố theo kiểu bác sỹ nhìn đâu cũng thấy vi trùng.

Dữ liệu nguy cơ khủng bố hậu 11/9 nhiều đến nỗi mỗi ngày được tập hợp thành một văn bản dày, được trình Tổng thống vào mỗi buổi sáng như một bữa điểm tâm. Mỗi ngày, CIA đều họp vào 5h chiều để theo dõi các nguy cơ này mặc dù theo Tenet “đa số các nguy cơ đều không có thật.” Chuyện bằng con kiến được thổi phồng lên thành con voi và chính quyền Mỹ sống trong nỗi lo sợ thường trực bởi những “ma trận nguy cơ” theo cách dùng từ của Tenet.

Trong cái “ma trận nguy cơ” ấy, Iraq đóng một vai trò nhất định. Chẳng hiểu vì lo sợ khủng bố quá mức hay cố tình như vậy, nhà cầm quyền Mỹ khăng khăng khẳng định rằng Sadam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt và có mối quan hệ khăng khít với Al-Qaida. Hoa Kỳ lại mang “xe ủi” đến để lật đổ hình tượng Saddam nhưng không ai tìm thấy vũ khí huỷ diệt hàng loạt như các báo cáo của CIA trước đó.

Tội vạ lại đổ lên đầu cơ quan tình báo Mỹ. Tenet có lý khi cho rằng nước Mỹ hậu 11/9 ở trong một cơn bão khủng khiếp và đương nhiên, CIA đứng ở vị trí trung tâm của cơn bão ấy.

Tình báo CIA: Thực tế khác với trong phim

“Chúng tôi không phải là những người tự do đi ám sát. Đó là việc của phim ảnh chứ không phải của một thế giới đầy rẫy sự phức tạp mà CIA đang hoạt động trong đó.”

Tenet biện luận như vậy trong hồi ký của mình. Đương nhiên, đứng ở mắt bão để hứng chịu búa rìu dư luận, cựu giám đốc CIA buộc lòng phải lên tiếng “thanh minh thanh nga”. Toàn bộ cuốn hồi ký có thể coi lời thanh minh của Tenet trước những lời chỉ trích. Tuy nhiên, điểm hay là ở chỗ, khi thanh minh cho bản thân mình, Tenet lại chĩa mùi dùi về phía chính quyền Bush chứ không phải phe chỉ trích.

Theo Tenet, CIA đã có những cảnh báo về vụ khủng bố 11/9 chứ không đến nỗi mù thông tin. Điển hình nhất là vào ngày 4/12/1998, CIA đã có một bản báo cáo tóm tắt cho tổng thống Clinton với tiêu đề: “Bin Laden chuẩn bị cướp máy bay Mỹ và tiến hành các cuộc tấn công khác.” Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2001, có khoảng 105 báo cáo tóm tắt được gửi tới lãnh đạo các cơ quan hàng không. Nhưng những lời cảnh tỉnh CIA đưa ra đã đi từ tai này sang tai kia của giới chức Hoa Kỳ.

Không chỉ nhận thức không đúng mực những nguy cơ, Tenet cho rằng CIA đã không được cung cấp đủ nguồn lực và không gian pháp lý đủ để hành động. Chính quyền Clinton chỉ cho phép bắt sống Bin Ladin, “đi ám sát Bin Ladin là không được phép và không thể chấp nhận được” trước ngày 11/9. Đó là vấn đề luật pháp và chính trị, những điều đó theo Tenet đã cản trở CIA hoạt động một cách thực sự hiệu quả để chặn đứng những âm mưu khủng bố.

Cú úp rổ “nhầm lỗ”

Trong một cuộc họp kín với tổng thống và các quan chức cấp cao Hoa Kỳ trước chiến tranh Iraq, George Tenet đã nói với tổng thống đại ý rằng việc phát hiện ra Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt chẳng khác nào một “slam dunk”. Chữ này là một từ trong bóng rổ được dịch là “cú úp rổ mạnh mẽ”. Hàm ý ở đây là việc phát hiện ra Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt chẳng khác nào một động thái mang tính bước ngoặt, khẳng định đã đến lúc phải tấn công.

Sau này, tổng thống Bush và các quan chức Mỹ nhiều lần sử dụng chữ “cú úp rổ” này của Tenet để biện minh cho tính cấp thiết của cuộc tấn công Iraq nhằm giải trừ vũ khí huỷ diệt của nước này. Vũ khí huỷ diệt đâu chẳng thấy, chỉ thấy “rác rưởi” từ đâu “úp” lên đầu giám đốc CIA George Tenet.

Sự thực theo Tenet, CIA chỉ đưa ra những báo cáo mang tính đánh giá chứ không hề khẳng định rằng Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt. Các thông tin tình báo không đủ cơ sở để chứng minh điều đó và CIA cũng không phát hiện “bất kỳ liên hệ nào giữa Saddam và sự kiện 11/9”, “không có bằng chứng nào cho thấy Baghdad cho phép, định hướng hay điều hành các chiến dịch của Al-Qaida.”

Thế nhưng, chính quyền Bush liên tục có những thúc ép buộc CIA phải đưa ra những kết luận và báo cáo mang tính khẳng định nhiều hơn. Tenet viết nhiều đoạn ám chỉ rằng mưu đồ chiến tranh đã được chuẩn bị từ trước và “vũ khí hủy diệt” chỉ là cái cớ dễ được dân chấp nhận, là “vấn đề mà tất cả mọi người đều có thể đồng ý.” Nằm trong cơn lốc đó, CIA cũng phải hòa theo dòng chảy chung chứ không thể đứng chắn ngang “đoàn tầu đang ầm ầm lao về phía trước” được.

Những thông tin tình báo manh mún và không đầy đủ đã được Collin Powell đem ra trước Liên Hiệp Quốc để biện minh cho cuộc tấn công Iraq. Nhưng đến khi không tìm thấy vũ khí, người ta lại đổ tội cho những thông tin tình báo “sai lạc” đó, cho rằng chính tình báo yếu kém đã dẫn chính quyền Mỹ tới một quyết định khiến quân đội sa lầy.

Đứng trước những lời cáo buộc, Tenet mất hết kiên nhẫn. Ông khẳng định tình báo chỉ là người thực thi chính sách chứ không phải người đề ra chính sách. Đoạn cuối cuốn sách, ông “điên tiết” tuyên bố cảm giác mình chỉ như một “kẻ thế mạng” để chính phủ “tròng cái thòng lọng vào cổ”. Tenet gọi đó là “chuyện hèn hạ nhất tôi từng thấy trong đời” và gọi tất cả trò đổ tội đó bằng hai từ “bịp bợm”.

Biện minh hay minh biện?

Nhiều lời thanh minh của Tenet khá thuyết phục nhưng cũng có nhiều đoạn quan điểm của ông mập mờ, hai mặt. Là người ủng hộ chiến tranh Iraq nhưng giờ đây Tenet lại cho rằng nước Mỹ đã chưa có những cuộc tranh luận nghiêm túc về sự cần thiết cũng như hậu quả của cuộc chiến này.

Tenet phê phán nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Mỹ từ phó tổng thống Cheney cho tới cố vấn an ninh quốc gia Condi Rice nhưng lại không dám đả động gì tới tổng thống Mỹ Bush. Từng 7 năm giữ chức giám đốc CIA dưới cả hai chính quyền Bush và Clinton, không khó hiểu khi Tenet luôn đưa ra những lập luận theo kiểu “vừa đấm vừa xoa”, không rõ ràng như chính những thông tin tình báo lẫn lộn thật giả ở CIA của ông.

Phần cuối sách được viết cảm động nhưng có vẻ như số người cảm thông với tác giả không nhiều. Quan điểm “lập lờ” của Tenet đã nhận được sự công kích của các nhân vật ở cả hai phe chủ chiến và phản chiến, của cả giới chức cấp cao như Condi Rice, John McCain… cho tới những đồng nghiệp, nhân viên cũ của Tenet ở CIA. Đặt tên cuốn sách của mình là “Mắt bão”, như một điềm báo trước, tác giả của nó lại phải nằm ở tâm của một cơn bão chỉ trích mới nhắm vào ông.

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2008

Entry for December 22, 2008

Thấy hay nên up lên để ghi nhớ.

Trong 1 đất nước rất nhỏ có 1 thủ đô rất to (Hà nội or Hà lội - đôi lúc cũng lúng túng) Trong thủ đô rất to có những con đường rất nhỏ Bên những con đường rất nhỏ có những ngôi biệt thự rất to Trong những ngôi biệt thự rất to có những cô vợ nhỏ' Những cô vợ nhỏ là của các ông quan to Những ông quan to có cái cặp rất nhỏ Trong những cái cặp rất nhỏ có những dự án rất to Trong những dự án rất to thì hiệu quả lại rất nhỏ Hiệu quả rất nhỏ nhưng thất thóat thì rất to. Hay!

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008

Dầu mỏ




“Dầu mỏ”: “Tam Quốc diễn nghĩa” thời hiện đại

1200 trang sách với hàng trăm nhân vật được miêu tả trong suốt gần 150 năm lịch sử, từ khi những giọt dầu đầu tiên được khai thác ở Pennsylvania nước Mỹ cho tới cuộc chiến Iraq xâm lược Côoét. Tác phẩm “Dầu mỏ - Tiền bạc và Quyền lực” của tác giả Daniel Yergin do công ty sách Alpha xuất bản có tầm vóc của một “Tam quốc diễn nghĩa” thời hiện đại.

Kỳ I: Kỷ nguyên của những người anh hùng

Toàn bộ thế kỷ 20 được coi là kỷ nguyên Dầu mỏ. Cuộc chiến tìm kiếm và chiếm giữ nguồn “vàng đen” này đã tạo ra những nhân vật anh hùng và chính họ lại làm biến đổi kỷ nguyên ấy theo những con đường khác biệt hoàn toàn so với bất kỳ giai đoạn nào trước đó.

“Tam Quốc Diễn Nghĩa” của Daniel Yergin

Câu chuyện mở đầu ở “một vùng đồi núi xa xôi phía tây bắc bang Pennsylvania” những năm 1850, nơi người ta nhìn thấy “một loại vật chất tối màu và nặng mùi trên mặt các con suối và nhánh sông.” Loại vật chất ban đầu chỉ được người dân ở đây dùng để làm thuốc và thắp sáng. Một người đàn ông nhạy bén với cơ hội kinh doanh có tên George Bissell đã nảy ra ý tưởng khai thác loại vật chất này với khối lượng lớn để bán như một loại dầu thắp sáng. Ý tưởng bị những người xung quanh nhạo báng này đã đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử loài người - kỷ nguyên dầu mỏ. Và ngay cả cha đẻ của kỷ nguyên ấy, George Bissell, cũng không thể ngờ rằng thứ vật chất mà ông chỉ nghĩ rằng dùng để thắp sáng đó, đã vĩnh viễn thay đổi cuộc sống và vận mệnh của biết bao cá nhân, công ty và quốc gia trên khắp địa cầu.

Tác phẩm “Dầu mỏ” khởi đầu nhẹ nhàng như vậy nhưng toàn bộ cuốn sách dày như một quyển từ điển này thì hoàn toàn ngược lại. Xuyên suốt tác phẩm là cuộc chiến không khoan nhượng giữa 3 thế lực trụ cột nhằm kiểm soát dầu mỏ: đó là các công ty dầu lửa, các nước xuất khẩu dầu mỏ lớn và các cường quốc. Tương tự như ba nước Ngụy, Thục, Ngô trong “Tam Quốc diễn nghĩa” tranh giành đất đai và quyền lực, ba thế lực trong “Dầu mỏ” cũng xung đột liên tục trong suốt hơn một thế kỷ để tranh giành dầu mỏ - thứ vật chất có thể mang lại tiền bạc và quyền lực tối thượng cho những người sở hữu nó.

Nếu như “Tam quốc diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết sử thi nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc thì “Dầu mỏ” như lời bình luận của các tờ báo phương Tây là “thiên sử vĩ đại nhất thế kỷ 20”. Điểm khác nhau chỉ là “Dầu mỏ” không phải là một tác phẩm có ít nhiều hư cấu như Tam Quốc. Cuốn sách ngập tràn những thông tin và dữ liệu chính xác về lịch sử và tác giả của nó đã thể hiện rõ đẳng cấp của một học giả đoạt giải Pulitzer bởi tầm hiểu biết, khả năng tổng hợp và phân tích “siêu đẳng” các biến cố lịch sử phức tạp.

Nhân vật lịch sử: đã chết mà như đang sống

Không phải là một cuốn biên niên sử với những con số và ngày tháng khô khan, cuốn sách của Daniel sống động với những nhân vật được miêu tả đậm chất sử thi và mang tính “anh hùng” như những nhân vật trong Tam Quốc. Vua dầu mỏ Rockefeller, thủ tướng Anh Churchill, trùm phát xít Đức Hitler, tổng thống Bush cha và nhà độc tài Saddam Hussein, tất cả hiện lên trong cuốn sách bằng những nét khắc độc đáo rất “con người”.

Trùm dầu mỏ Rockefeller được nhắc tới nhiều nhất trong cuốn sách. Người đã sáng lập nên đế chế dầu mỏ Standard Oil này được miêu tả là một nhà doanh nghiệp đa nghi, lạnh lùng và khôn ngoan đến nỗi “khi mới ra đời, hẳn ông ta đã 100 tuổi.” Tuy là người giàu nhất nước Mỹ thời bấy giờ nhưng ông vẫn “duy trì tính căn cơ kỳ lạ”, “kiên quyết mặc những bộ comple cũ cho tới khi chúng sờn rách”. Thế mà, nhà tư bản bị người cùng thời nguyền rủa là tàn nhẫn và vô cảm ấy lại dành “số tiền lẻ” của mình để làm từ thiện lên tới 550 triệu đôla, trong đó có việc sáng lập ra đại học Chicago danh tiếng nhưng “từ chối việc đặt tên mình cho bất kỳ ngôi nhà nào trong trường.”

Tổng thống Bush cha lập nghiệp từ ngành dầu mỏ. Ông chủ dầu mỏ sau này thành người đứng đầu nước Mỹ, đã từng “làm những công việc nhỏ nhất của một nhân viên tập sự, từ sơn các thiết bị bơm dầu cho đến phụ trách bán hàng, lăn lộn khắp nơi để hỏi khách hàng cần mũi khoan cỡ nào, loại đá nào…” Xuất thân từ dòng dõi quý tộc và tốt nghiệp Đại học Yale nhưng Bush cha đã “từ chối một công việc đúng chuyên môn” để “thành lập một công ty dầu cùng với những người trẻ tuổi tham vọng và khao khát kiếm tiền.” Thấu hiểu “chân tơ kẽ tóc” của ngành dầu mỏ đã khiến Bush cha có những quyết định nhanh chóng và cứng rắn ngay khi Iraq xâm lược Côoét vào năm 1990.

Saddam Hussein được nhắc tới như một nhà độc tài với những quyết định sai lầm đã huỷ hoại dân tộc Iraq và gây ảnh hưởng tới nền công nghiệp dầu lửa thế giới. Chào đời năm 1937, tính cách Saddam được “hình thành trong môi trường chủ nghĩa dân tộc cực đoan” và bởi “nền văn hóa quê nhà Tikit, một vùng đất xa xôi hẻo lánh, nằm trên sa mạc khắc nghiệt. Người Tikrit đề cao giá trị của những quy luật sinh tồn trên sa mạc. Đó là sự đa nghi, yếu tố bất ngờ, và sử dụng vũ lực để đạt mục đích.” Môi trường đó là nguyên nhân biến Saddam trở thành một nhà lãnh đạo chuyên chế bậc nhất với âm mưu bá chủ thế giới dầu mỏ ở Trung Đông.

Nhiều nhân vật có vai trò quan trọng khác trong sân khấu dầu mỏ được mô tả rất đắt và hài hước. Thủ tướng Iran Mohammed Mossadegn, người đã quốc hữu hóa các công ty dầu lửa nước ngoài tại Iran những năm 50, là người lập dị đến nỗi luôn “mặc pijama và nằm dài trên giường” mỗi khi tiếp những nhân vật ngoại quốc quan trọng. Ông này còn là một “diễn viên chính trị” vĩ đại, cứ “đến đỉnh điểm của mỗi bài diễn văn là ông lại ngất.” Người sáng lập ra tập đoàn danh tiếng Shell, Marcus Samuel, đặt tên công ty như vậy bởi cha ông là người “buôn vỏ sò”, thương gia nhiều ý tưởng này lại đặc biệt đến nỗi “không tin vào khái niệm chi phí quản lý doanh nghiệp” bởi “điều hành công ty từ một văn phòng nhỏ” và “gần như chẳng có nhân viên nào.” Calouste Gulbenkian, người đã có công tạo lập chỗ đứng cho công ty dầu mỏ Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông sau chiến tranh thế giới thứ nhất, là người đa nghi quá mức, khi về già đã thuê “hai nhóm bác sỹ khác nhau để có thể kiếm tra chéo”, chính ông này cũng “luôn có ít nhất một người tình dưới 18 tuổi ngay cả khi đã 80 tuổi.” Thế giới nhân vật trong Dầu mỏ đa dạng từ những nguyên thủ quốc gia, các chủ tịch tập đoàn cho tới những kẻ giang hồ, nhưng tất cả đều mang trong đầu một tham vọng chung, đó là kiếm tìm thứ vật chất có thể tạo ra tiền bạc và quyền lực vô hạn: dầu mỏ.

Kỳ 2: Thời đại của những cuộc xung đột

Kỷ nguyên Dầu mỏ là một thế kỷ xung đột kéo dài giữa ba nhóm thực thể chính tạo nên bức tranh dầu mỏ toàn cầu: các cường quốc, các nước xuất khẩu dầu mỏ và các công ty dầu mỏ. Những câu chuyện tưởng như đã là quá khứ vẫn nóng hổi hơi thở hiện tại bởi những diễn biến lịch sử vẫn đang ảnh hưởng trực tiếp tới thế giới ngày nay.

Xung đột lịch sử : quá khứ mang hơi thở hiện tại

Trước nhất phải nhắc tới cuộc đấu tranh giữa các cường quốc xung quanh nguồn tài nguyên có vai trò chi phối sức mạnh quân sự và kinh tế này. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, quyết định của thủ tướng Anh Churchill “xây dựng sức mạnh hải quân dựa trên dầu mỏ” đã tạo cho quân đội Anh lợi thế nổi bật so với việc sử dụng than đá trước đó. Việc quân đội Đức thất bại trong việc tiếp cận nguồn dầu ở Baku ở thời điểm cuối cuộc chiến đã là “một đòn quyết định”, khiến nước Đức kiệt quệ nguồn năng lượng và đầu hàng sớm. Yếu tố năng lượng đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của phe Đồng minh, dầu mỏ là “huyết mạch của chiến thắng” theo như lời thượng nghị sỹ Pháp Bérenger.

Nhưng chiến tranh thế giới nhất chỉ như một “phép thử” đối với vai trò của dầu mỏ trong cuộc tranh giành quyền lực. Trong thế chiến thứ hai, dầu mỏ mới thực sự là yếu tố then chốt trong chiến lược, chiến thuật của các nước lớn cũng như đóng vai trò quan yếu vào chiến thắng của phe đồng minh. Người đọc sẽ phát hiện ra những mốc lịch sử quan trọng lại xuất phát từ nguyên nhân dầu mỏ. Quân đội Nhật phải tấn công hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng bởi muốn ngăn chặn bất kỳ sự can thiệp nào của Mỹ khi Nhật chiếm những mỏ dầu ở Đông Ấn. Quân Đức phải tấn công Liên Xô bất chấp hiệp định giữa Stalin và Hitler trước đó bởi muốn chiếm mỏ dầu ở Baku. Tuy nhiên, âm ưu chiếm dầu của Hitler thất bại, đẩy phe Trục vào tình thế thiếu nhiên liệu trầm trọng và sụp đổ. Phe Đồng minh ngược lại với nguồn cung cấp dầu dồi dào từ Mỹ đã ngày càng chiếm ưu thế. Đoạn hay nhất là khi hồng quân Liên Xô tiến vào tới sát bongke của Hitler thì trùm phát xít đã “ra lệnh đổ xăng vào người mình và tự thiêu để không rơi vào tay những người Slav đáng ghét”. “Vẫn còn đủ xăng để thực hiện mệnh lệnh cuối cùng đó” của Hitler.

Cuộc chiến khốc liệt thứ hai phải nhắc tới là giữa các công ty dầu lửa và các nước xuất khẩu dầu mỏ. Khởi đầu là các nhà tư bản dầu lửa phương Tây tìm cách đạt được các thoả thuận nhượng quyền khai thác với các quốc gia Trung Đông bằng cách trả một khoản tiền nhất định ban đầu. Giai đoạn khởi đầu đó, khi các nước Trung Đông chưa hiểu gì về dầu mỏ, những khoản tiền như vậy đã có thể coi là hợp đồng béo bở. Nhưng khi đã nhận thấy sức mạnh khủng khiếp của dầu mỏ, các nước xuất khẩu dầu mỏ bắt đầu quá trình “ép ngược” các tập đoàn dầu khí phương Tây. Đầu tiên, là các hợp đồng nhượng quyền, sau đó tới những thoả thuận phân chia lợi nhuận ngày càng có lợi cho các nước có dầu, từ 50-50, rồi 60-40, 70-30 và thậm chí 98-2. Đầu tiên, các công ty được trao độc quyền “tự tung tự tác”, sau đó, các quốc gia có mỏ dầu tiến tới “dự phần” tham gia điều hành, cuối cùng là nắm toàn bộ và chỉ thuê các công ty khai thác như những “nhà thầu”. Cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng hấp dẫn và đỉnh điểm của nó là những lần quốc hữu hóa. Khởi điểm là vào năm 1938 khi tổng thống Mexico Lazaro Cardenas tuyên bố truất hữu các công ty dầu. Tiếp đó là thủ tướng Iran Mossadegh quốc hữu hóa công ty BP của Anh quốc vào năm 1951. Nhưng việc quốc hữu hóa bao giờ cũng là thảm bại cho các nước có dầu bởi sự sụt giảm sản lượng trầm trọng do thiếu công nghệ của phương Tây.

Đặc sắc trong cuộc chiến giữa các công ty và các nước xuất khẩu dầu mỏ là vấn đề giá cả. Ban đầu, các công ty có quyền định giá dầu nhưng nhận thấy giá dầu thấp ảnh hưởng tới lợi nhuận của mình, các nước xuất khẩu dầu mỏ tìm mọi cách tăng giá dầu. Tổ chức OPEC ra đời những năm 60 chính xuất phát từ nhu cầu đoàn kết để kiểm soát giá dầu của các nước xuất khẩu dầu mỏ. Mỗi lần OPEC quyết định tăng giá là mỗi lần nền kinh tế toàn cấu lại chao đảo bởi dầu mỏ đã trở thành “máu” của nhiều ngành công nghiệp.

Cuộc xung đột thứ ba là giữa các cường quốc và các nước xuất khẩu dầu mỏ. Trong cuộc chiến này, các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ đã sử dụng thứ vật chất này như “vũ khí” để tấn công các cường quốc. Tiêu biểu là cuộc chiến Yom Kippur năm 1973 giữa Ai Cập và Israel. Các nước Trung Đông đã dùng việc “cấm vận, cắt giảm sản lượng và giới hạn xuất khẩu dầu mỏ” để gây sức ép khiến Mỹ, Anh, Nhật và các nước phương Tây khác phải thay đổi thái độ bênh vực Israel của mình. Lệnh cấm vận đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế nghiệm trong những năm 73-74 và “vũ khí dầu mỏ” đã phát huy phần nào tác dụng của nó. Theo lời Kissinger thì, vũ khí dầu mỏ đã “biến đổi thế giới theo một cách không thể khác được.” Đúng như vậy, các cuộc khủng hoảng dầu mỏ dẫn tới khủng hoảng kinh tế ở Phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử đều bắt đầu từ những biến đổi trong động thái chính trị của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông, mà điển hình là cuộc khủng hoảng 1979-1981 khi vua Iran bị lật đổ bởi nhà lãnh đạo Hồi giáo căm thù phương Tây Ayatollah Khomeini.

Trung Đông với tư cách là rốn dầu của thế giới đã trở thành một khu vực đặc biệt quan trọng xét về mặt địa chính trị. Năm 1990, Saddam Hussein đã sai lầm khi nghĩ rằng có thể “nuốt chửng Côoét và đặt thế giới và sự đã rồi”. Mỗi động thái chính trị ở khu vực tối quan trọng này ngay lập tức sẽ được cộng đồng quốc tế phản ứng tức thời bởi giá dầu quyết định sự thịnh vượng của mọi nền kinh tế. Saddam đã không ngờ rằng thế giới phương Tây và các quốc gia Ả Rập lại bắt tay nhau nhanh tới vậy để ngăn chặn âm mưu của Iraq. Và đúng như lời tổng thống Bush cha: “Cuộc xâm lược sẽ không kéo dài lâu” bởi “công việc của chúng ta, cuộc sống của chúng ta, tự do của chúng ta và các nước bạn bè trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới rơi vào tay Saddam Hussein.”

Bài học nhỏ từ lịch sử dài những thăng trầm

Vào năm 1986, trong một cuộc đối thoại ở trường Đại học Havard, khi được một giáo sư hỏi về quá trình xác lập chính sách năng lượng của ArâpXêút, Yamani, vị bộ trưởng năng lượng xuất chúng của quốc gia này đã “trả lời không hề do dự”: “chúng tôi tuỳ cơ ứng biến.”

Khán giả cười ồ lên, nhưng chỉ một câu trả lời đó đã cho thấy tính chất lên xuống, bất định, bất thường của ngành công nghiệp dầu lửa thế giới trong suốt thế kỷ 20. Giá dầu lên rồi lại xuống, sản lượng tăng vọt rồi bị siết lại, nguồn cung thiếu hụt rồi lại dư thừa, hạn ngạch áp đặt rồi lại xóa bỏ, toàn bộ tác phẩm Dầu mỏ vẽ lại đồ thị hình sin của những thăng trầm như thế trong suốt hơn một trăm năm lịch sử.

Tuy nhiên, “Dầu mỏ” không chỉ là một cuốn biên niên sử chi tiết về ngành công nghiệp dầu lửa, mà đúng như Chicago Tribune Book World bình luận: “Yergin viết về lịch sử thế giới từ quan điểm dầu mỏ.” Cuốn sách như một cuốn cẩm nang về lịch sử chính trị và kinh tế của thế kỷ 20 với ngập tràn những số liệu và phân tích từ vi mô tới vĩ mô. Sự đồ sộ của tác phẩm và những kiến giải uyên thâm của tác giả tạo ra ấn tượng mạnh với người đọc.

Nhưng, điều đọng lại cuối cùng của tác phẩm với nhiều người có lẽ lại không phải là tầm khái quát khủng khiếp của tác giả trên suốt chiều dài lịch sử, mà lại là khả năng kể lại những tích truyện ngắn, nhỏ, nhiều ý nghĩa. Giống với Tam quốc diễn nghĩa, hay nhất trong tác phẩm là các đoạn kể về cuộc đời các vĩ nhân, ở đây là vĩ nhân trong sân khấu dầu mỏ thế giới. Dù là chính khách, doanh nhân hay những kẻ giang hồ, họ đều hiện lên mạnh mẽ, kiên định, quyết liệt, mưu lược và đầy tham vọng. Trong thế giới của những bất ổn và mưu toan tìm kiếm tiền bạc và quyền lực, đó chính là những phẩm chất để thành công. Đúng như Rockefeller đã viết trong bức thư khiển trách ban giám đốc Standard Oil:

Chúng ta phải là những con người tháo vát, dám đương đầu với bất kỳ định mệnh nào. Phải tiến tới, phải theo đuổi, phải học cách nỗ lực và chờ đợi…

Đó là bài học nhỏ hay nhất rút ra từ lịch sử dài đầy những thăng trầm trong “Dầu mỏ” .

Nghịch lý của Chiến lược đuổi kịp




http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5351/index.aspx

Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp
Chủ nhật, 23/11/2008, 09:41 GMT+7

Tên sách: NGHỊCH LÝ CỦA CHIẾN LƯỢC ĐUỔI KỊP (The Paradox of Catching up)
Tác giả: Litan
Dịch giả: Nguyễn Minh Vũ, Vũ Duy Thành, Lã Việt Hà, Nguyễn Hồng Quang
Phát hành: NXB Trẻ
*****

Khi Alexander Đại đế đến thăm nhà triết học Diogenes và hỏi liệu ngài có thể làm được gì cho ông ta không, câu trả lời của Diogenes là: "Có đấy, xin hãy tránh xa ra một chút để đừng che lấp mặt trời của tôi".

Câu chuyện ngụ ngôn được kể trong cuốn sách Hiểu kinh tế qua một bài học của Henry Hazlitt đã trở thành một ẩn dụ để những người theo trường phái tự do nói về vai trò của chính phủ đối với nền kinh tế. Theo họ, chức năng của chính phủ chỉ là khuyến khích và duy trì thị trường tự do chứ không can thiệp vào thị trường.

Vào những năm 1980 và đặc biệt sau khi hệ thống các nước cộng sản sụp đổ vào thập niên 90, tư tưởng laissez-faire đó đã thống trị toàn cầu và tưởng như đã trở thành một chân lý bất biến.

Nhưng, tư tưởng duy thị trường đó lại không giải thích được một cách trọn vẹn nhiều hình mẫu trong thực tiễn. Tại sao Trung Quốc với rất nhiều doanh nghiệp nhà nước (SOE) là trụ cột của nền kinh tế lại vẫn phát triển với tốc độ chóng mặt?

Tại sao các nước Đông Á vẫn làm nên những "sự thần kỳ" cho dù chính phủ tham gia sâu vào quá trình định hướng thị trường, thao túng doanh nghiệp? Và thậm chí, ngay cả những mô hình hoàn toàn phi thị trường như Liên Xô cũng có những giai đoạn dài trong lịch sử phát triển rất mạnh mẽ?

Với chỉ 300 trang, cuốn sách: The paradox of catching up của tác giả Litan với bản dịch tiếng Việt là Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp đã nỗ lực tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên. Cuốn sách tư duy lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước, lý giải sự ưu việt cũng như giới hạn không thể vượt qua của nó.

"Lợi thế của sự lạc hậu"

Tác giả Litan đã sử dụng Lý thuyết chi phí giao dịch của nhà kinh tế học Ronald Case để lý giải lợi thế của các nền kinh tế dựa vào nhà nước trong quá trình phát triển.

Theo lý thuyết này, "luôn tồn tại chi phí thực hiện các trao đổi trên thị trường". Nghiên cứu của các nhà kinh tế học sau này đã chỉ ra rằng "chi phí giao dịch chiếm gần một nửa thu nhập quốc dân của nền kinh tế Mỹ".

Nói cách khác, người mua kẻ bán không thể đơn giản gặp nhau và tự nguyện trao đổi với chi phí giao dịch bằng không (0) như lý thuyết tân cổ điển đơn giản hóa. Nền kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi các giao dịch nhằm "bôi trơn" để thị trường vận hành, ví dụ như các ngành ngân hàng, bảo hiểm, luật, quảng cáo, bán lẻ…

Trong những nền kinh tế phát triển trước như Anh, Mỹ, các doanh nghiệp phải tự mày mò phát triển và tìm thị trường. Những ngành công nghiệp mới, những sản phẩm mới, thị trường mới nảy sinh từ quá trình "tự thân vận động" của doanh nghiệp.

Quá trình dài nhiều gian nan này là tiền đề để nảy sinh các dịch vụ giao dịch hỗ trợ, ngược lại, các dịch vụ giao dịch cũng tác động ngược, bôi trơn để quá trình phát triển công nghiệp diễn ra xuôi chèo mát mái hơn.

Nhưng, các quốc gia phát triển sau như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc và cả Liên Xô cũ, không nhất thiết phải tự thân vận động để tìm kiếm các ngành công nghiệp mới, thị trường mới. Do lợi thế thông tin của các nước phát triển sau, chính phủ của họ đã "nghiên cứu các mô hình phát triển công nghiệp của các nền kinh tế đi trước để áp dụng vào quá trình sản xuất của nước mình".

Đó chính "là lợi thế của sự lạc hậu", là nguyên nhân quan trọng khiến các quốc gia này dù dựa vào nhà nước để định hình nền kinh tế vẫn có những bước phát triển mạnh mẽ.

Vật cản: sự kém phát triển của khu vực phi sản xuất

Sự lạc hậu, như Litan đã viết, có lợi thế của nó. Các quốc gia đi sau, nhờ "tương tác thường xuyên và trực tiếp với các thị trường phát triển của thế giới" (xét về cả đầu vào là mô hình lẫn đầu ra là xuất khẩu), đã rút ngắn được giai đoạn công nghiệp hóa xuống còn vài chục năm thay vì vài trăm năm như những nước tiên phong.

Tuy nhiên, quá trình đi tắt đón đầu này cũng tạo ra một rào cản mang tính thể chế trên con đường chinh phục vị trí lãnh đạo của các nền kinh tế này. Sự phát triển tắt dựa vào việc nhà nước định hướng, định hình đã tạo ra sự bất cân xứng giữa hai khu vực sản xuất và dịch vụ giao dịch. Trong khi khu vực sản xuất phát triển mạnh nhờ học theo mô hình các nước đi trước thì khu vực phi sản xuất lại lẹt đẹt.

Chính sự kém phát triển của khu vực phi sản xuất đã "đóng vai trò kìm hãm sự phát triển của thị trường trong nước, cản trở khả năng tạo ra sự đổi mới cơ bản trong cuộc chạy đua giành vị trí dẫn đầu về kinh tế".

Ví dụ, luật pháp về quyền sở hữu trí tuệ kém không thể tạo ra đòn bẩy khuyến khích cần thiết để những phát minh, sáng chế, sáng tạo mang tính đột phá ra đời. Theo tác giả Litan thì sự bất cân xứng này khiến các quốc gia đi sau không thể vượt lên để dẫn dắt nền kinh tế thế giới thay thế Mỹ, Anh hay Đức được.

Phát triển, nhưng không tạo ra cách mạng

Khung lý thuyết thứ hai mà Litan đã dùng để lý giải sự nhảy vọt cũng như điểm tới hạn của các nền kinh tế dựa vào nhà nước là lý thuyết Tiến hóa hay lý thuyết Tân Schumpeter.

"Sự thần kỳ châu Á", đối với Litan, mang lại phát triển và thịnh vượng nhưng không tạo ra những cuộc cách mạng về văn minh,
vì châu Á thiếu những doanh nhân cách mạng.
Nguồn: stuckincustoms.com

Lý thuyết này khái quát sự phát triển của nền kinh tế thế giới như một quá trình năng động, từ "mô hình kinh tế - công nghệ cũ sang mô hình kinh tế - công nghệ mới".

Ví dụ, làn sóng công nghệ thứ nhất vào cuối thế kỷ 18 ở nước Anh là dệt may và sản xuất than. Làn sóng công nghệ thứ hai giữa thế kỷ 19 là đột phá về đầu máy hơi nước, đường sắt. Làn sóng thứ ba là điện lực, luyện thép, cơ khí nặng diễn ra đầu tiên ở Hoa Kỳ và Đức.

Làn sóng thứ tư khởi nguồn ở Hoa Kỳ là sáng chế trong công nghiệp ôtô, hàng không và tự động hóa, sản xuất hàng loạt… Làn sóng mới nhất là cuộc cách mạng thông tin: máy tính, Internet, điện thoại di động…

Quá trình phát triển của mô hình kinh tế - công nghệ này được thúc đẩy bởi hai quá trình nhỏ hơn là đổi mới cơ bản và đổi mới tiệm tiến. Đổi mới cơ bản là những thay đổi công nghệ mang tính cách mạng, bước ngoặt, tạo ra động lực chính và dẫn tới sự phát triển lên tầm mới của nền kinh tế thế giới.

Đổi mới tiệm tiến, ngược lại, chỉ mang tính tiến hóa, giúp phát tán các đổi mới cơ bản tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thông qua bắt chước và thích nghi.

Dễ thấy các quốc gia đi sau và dựa vào nhà nước như nhóm Đông Á, Trung Quốc đều bắt chước và thích nghi với công nghệ nhiều hơn là có những phát minh mang tính cách mạng. Hay nói cách khác, các nước đi sau chỉ có những đổi mới tiệm tiến chứ không tạo ra được sự đổi mới cơ bản sang hẳn một làn sóng công nghệ mới như Anh, Mỹ, Đức đã làm được.

Biết đâu, khi thế giới "phẳng" hơn nữa, những Bill Gates hay Steve Jobs
sẽ xuất hiện ở những nơi không phải là nước Mỹ
Nguồn: gizmodo.com

Nguyên nhân là do mô hình phát triển dựa do nhà nước định hình không tạo ra được môi trường năng động, cởi mở và khuyến khích cần thiết để có những đột phá mang tính cách mạng.

Ở các quốc gia phát triển sau dựa vào nhà nước, không có những doanh nhân anh hùng tạo ra cả một nền công nghiệp như Rockefeller, Henry Ford, Thomas Edison, Bill Gates… mà chỉ thấy những nhà lãnh đạo nhà nước như Lý Quang Diệu, Đặng Tiểu Bình, Pak Chung Hee, Mahathir Mohamad…

Các nhà lãnh đạo đã chỉ ra con đường phát triển "từ trên xuống" chứ không phải những doanh nhân dám nghĩ dám làm đã tạo ra sự thay đổi "từ dưới lên".

Theo tác giả, không thể có những doanh nhân anh hùng trong một thể chế mà dịch vụ giao dịch không phát triển và nhà nước can thiệp sâu vào nền kinh tế. Sự tham dự của nhà nước đã giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và bắt chước công nghệ, tạo ra sự thần kỳ trong phát triển nhờ tận dụng lợi thế thông tin của nước đi sau. Nhưng, đó lại là rào cản trong quá trình vươn lên vị trí dẫn đầu. Đó là nghịch lý của chiến lược đuổi kịp.

Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp giải thích sự phát triển đột phá của các quốc gia Đông Á, Trung Quốc nhưng cũng lý giải tại sao Nhật Bản trong quá khứ và cả Trung Quốc của tương lai khó có thể vượt qua Mỹ với thể chế hiện tại.

Nhưng một câu hỏi đặt ra sau khi ta gấp cuốn sách lại: Liệu khi thế giới trở nên phẳng hơn nữa, xã hội mở hơn nữa và toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng hơn nữa theo một chuẩn mực chung, thì những rào cản về mặt thể chế kia có bị san bằng hay không? Biết đâu, khi đó lại có một Bill Gates hay Steve Jobs ra đời ở một quốc gia nào đó - không phải Mỹ?

  • Khánh Duy

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2008

Soros nói gì về nước Mỹ hậu khủng hoảng




http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5343/index.aspx

Soros nói gì về nước Mỹ hậu khủng hoảng?

Năm 1992, nhờ tiên đoán đúng xu hướng của đồng bảng Anh, tỉ phú George Soros đã kiếm được hơn một tỉ đô la Mỹ chỉ trong vòng 1 tuần. Từ đó, tên tuổi và tài “tiên tri” của Soros nổi như cồn. Trong cuộc khủng hoảng vừa qua, ông cũng là một trong số ít người tiên đoán trước sự suy thoái nặng nề. Theo Soros, một kỷ nguyên đã thực sự kết thúc với cuộc khủng hoảng này.

“Soros đã nhìn thấy trước sự kết thúc của một kỷ nguyên” Đó là tựa của một bài viết dài đăng trên The New York Review of Books. Trong cuốn sách mới của ông, Soros cũng đã viết như vậy.

“Chủ nghĩa tư bản sẽ tồn tại”

Khủng hoảng tín dụng nổ ra, Soros “đắt sô” với báo chí, truyền hình. Đi đâu người ta cũng hỏi ông: “Kỷ nguyên mà ông nói sẽ kết thúc là kỷ nguyên nào vậy?”

Nhiều quan điểm chống thị trường tuyên bố: chủ nghĩa tư bản đã kết thúc, “Xin chào Chủ nghĩa xã hội” quay trở lại. Nhưng, Soros đã vội vã “chỉnh” lại những lập luận như vậy: “Chủ nghĩa tư bản sẽ tồn tại.” Mặc dù phê phán chủ nghĩa duy thị trường đã góp phần tạo ra khủng hoảng, nhưng Soros khẳng định: “Nhiều người muốn chính phủ đóng một vai trò ít nhất có thể và tôi cũng cho rằng chính phủ nên đóng một vai trò nhỏ hơn. Nhiều người tin vào thị trường, tôi cũng tin vào thị trường. Nhưng tôi chỉ muốn thị trường vận hành một cách hợp lý hơn…”

Để thị trường vận hành hợp lý, chính phủ phải đóng một vai trò nhất định, không phải đóng vai trò nhiều hơn mà là tốt hơn, không phải gia tăng thêm nhiều luật lệ mà đưa ra và thực thi một số những luật lệ phù hợp. Cho dù “chính phủ cũng là con người, họ luôn có xu hướng sai, luôn quan liêu, chậm trễ và bị ảnh hưởng bởi chính trị. Nhưng nếu chính phủ không can thiệp mà cứ để đấy cho thị trường quyết tất thì là một sai lầm.”

Nhà đầu tư 77 tuổi lập luận: “chủ nghĩa thị trường và chủ nghĩa Marx mắc phải một sai lầm tương tự nhau. Chủ nghĩa xã hội có thể phát triển tốt nếu những người cầm quyền luôn đặt lợi ích của dân chúng ở trong tim. Nhưng thực chất họ lại theo đuổi lợi ích cá nhân.” Cũng vậy, những “ông lớn” tài chính chỉ quan tâm đến lợi ích của họ chứ không phải nền kinh tế nói chung hay khách hàng họ đại diện. Đó là hai vấn đề về bản chất giống nhau và đương nhiên chính phủ cần đóng vai trò nắn cho các dòng lợi ích đó tương hợp với nhau ít nhất một cách tương đối.

Kinh tế khủng hoảng có nghĩa là dân chúng đang nghèo đi nhưng Soros nhấn mạnh rằng giấc mơ Mỹ sẽ không kết thúc. “Nước Mỹ vẫn là đất nước của những cơ hội vĩ đại và năng lực tự học hỏi vĩ đại.” Giấc mơ Mỹ không kết thúc nhưng thời đại của một nước Mỹ tiêu dùng đã kết thúc.

Nước Mỹ không còn là “động cơ” của nền kinh tế toàn cầu

Trong suốt 25 năm qua, nước Mỹ đã trở thành “động cơ” của nền kinh tế thế giới. “Động cơ” đó chính là năng lực tiêu dùng của người Mỹ, người Mỹ tiêu dùng nhiều hơn 6,5% so với khả năng sản xuất của nó. Giờ đây, “động cơ đã tắt”. Kỷ nguyên tiêu dùng Mỹ đã kết thúc.

Đó sẽ là một thời kỳ quá độ đầy khó khăn, nhưng Soros cho rằng: “thay vì tiêu dùng, giờ đây nước Mỹ phải xây dựng lại hệ thống điện, tiết kiệm năng lượng, làm cho cuộc sống thích nghi với năng lượng đắt đỏ cho đến khi khám khá ra nguồn năng lượng mới. Khí hậu toàn cầu nóng lên cũng là vấn đề lớn phải đối mặt. Tất cả sẽ đòi hỏi phải đầu tư lớn nhưng cuối cùng, nước Mỹ sẽ vượt qua…”

Đồng đôla Mỹ sẽ yếu đi, nước Mỹ xuất khẩu suy thoái sang các quốc gia khác nhưng đồng thời lại nhập khẩu lạm phát, giá cả sẽ tăng ở các siêu thị của Wal-Mart. Đồng đôla Mỹ cũng sẽ không còn là lựa chọn dự trữ quốc gia “không phải bàn cãi” của các nước khác. Chưa thực sự có một đồng tiền thay thế hoàn hảo nên đồng đô la vẫn có giá trị nhất định của nó nhưng “nước Mỹ sẽ phải tuân thủ những giới hạn được áp đặt bởi ý chí của các nước dự trữ đôla Mỹ, điều đó làm hạn chế khả năng của FED, ví dụ hạ lãi suất.”

“Obama là một người đặc biệt…”

Là nhà đầu cơ số một đã từng bị cựu thủ tướng Malaysia Mahatir Mohamad gọi là “quỷ dữ”, nhưng George Soros lại là một trong những người làm tự thiện nhiều nhất thế giới. Ông đã chi khoảng 5 tỉ đôla thông qua quỹ của mình trong đó có 27 triệu đô cho những “tổ chức chống Bush”. Soros đi du thuyết khắp cả nước để phê phán vị tổng thống này.

Soros nhận định trong một bài trả lời phỏng vấn gần đây: “Bộ máy của Bush đã bịa đặt rất thành công nhắm mục đích thao túng nhân dân, thay đổi dữ kiện. Điều này thể hiện rõ khi chính quyền Bush nhận được tới 90% sự ủng hộ khi đánh chiếm Iraq dưới mác chống khủng bố giả tạo. Cuối cùng, họ đã nhận được những gì đáng nhận được. Bush muốn chứng minh sự vượt trội của sức mạnh Mỹ và thế là ảnh hưởng của nước Mỹ trên thế giới bị suy giảm nghiêm trọng. Bush nghĩ rằng sẽ có thể làm cho tên tuổi ông ta vang danh thì cuối cùng lại tự vấy bẩn chính danh tiếng của mình.”

Về kinh tế, chủ thuyết duy thị trường gắn chặt với Đảng Cộng Hòa, có nguồn gốc sâu xa từ Reagan chứ không chỉ thời kỳ của Bush. Vì thế, Soros càng có xu hướng ủng hộ Đảng Dân Chủ. Ông đặt niềm tin mạnh mẽ vào Barack Obama: “Tôi cho rằng Obama đã chứng tỏ là một người đặc biệt, anh ta có thần thái và tầm nhìn để định hướng lại nước Mỹ một cách triệt để.”

“Cần nhận thức đúng thực tại chứ đừng bóp méo nó.”

Khi được hỏi: “Tiền tỉ có làm ông hạnh phúc?” Soros từng trả lời rằng: “Tất nhiên là tôi hạnh phúc nhưng không phải vì tiền, mà bởi tôi đã thành công trong hành trình lớn lao để thấu hiểu thực tại.”

Nhà tỉ phú luôn nhắc đi nhắc lại lý thuyết của mình rằng: ngộ nhận về thực tại là nguyên nhân của mọi khủng hoảng. Cho rằng phải chống khủng bố bằng cách đến tiêu diệt khủng bố ở một quốc gia khác, “đạp cửa nhà nguời khác và đe doạ họ” để tìm khủng bố là một ngộ nhận dẫn tới việc nước Mỹ sa lầy ở Iraq. Cho rằng cứ để đấy cho thị trường “làm tất” cũng là một ngộ nhận đẩy nước Mỹ và thế giới tới cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

Soros nhấn mạnh: “Cần nhận thức đúng thực tại chứ đừng bóp méo nó.” Bóp méo thực tại vì mục đích tự lợi (dù cố ý hay vô tình) cũng để lại những hệ luỵ khôn lường cho tương lai.

Khánh Duy

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

Khủng hoảng tài chính dưới góc nhìn Soros




http://tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/5289/index.aspx

Khủng hoảng tài chính 2008 dưới góc nhìn George Soros

Trong cuốn sách mới được xuất bản tại Việt Nam “Mô thức mới cho thị trường tài chính”, nhà đầu cơ tài chính George Soros đã lý giải cuộc khủng hoảng hiện nay dưới một góc nhìn khái quát nhưng cũng rất cụ thể từ trải nghiệm của người trong cuộc.

Một bài báo phê phán George Soros đăng trên tờ Jewish World Review đã mở đầu bằng một câu chuyện hài hước thế này:

“Trong một bộ phim, diễn viễn Peter Sellers đã thủ vai một nhân vật mà chúng ta không biết dùng từ nào để diễn tả hợp hơn từ “tâm thần có vấn đề”. Thế mà, người ta lại cứ coi ông ta như một thiên tài. Trong cuộc họp báo, phóng viên hỏi ông nghĩ gì về đất nước Trung Quốc. Thiên tài trầm ngâm, cúi đầu rồi chậm rãi trả lời: “Đất nước Trung Quốc toàn là… người Trung Quốc”. Đám đông phóng viên ở dưới gật đầu lia lịa, tán thưởng trí tuệ của thiên tài và thì thầm với nhau: “Toàn người Trung Quốc, đúng quá rồi”.

Cũng đúng như vậy với người có tiền, khi anh có nhiều tiền, chẳng ai nghĩ anh điên cả. Hoạ chỉ có người nghèo mới điên. Khi một người giàu đến dạ hội với một bộ cánh kỳ quặc thì những người khác sẽ nghĩ rằng chính cách ăn mặc của họ mới không hợp mốt. Câu chuyện này làm ta nghĩ đến George Soros…”

Sự thật là Soros có quá nhiều tiền, năm 2004, ông đứng thứ 24 trong danh sách những người giàu nhất thế giới, tài sản của ông hiện tại khoảng 9 tỉ USD. Và nhà đầu cơ huyền thoại này lại là một kẻ lắm tiền hay “nói”, ông viết đến cả chục cuốn sách từ kinh tế tới chính trị. Tất nhiên, chỉ tên tuổi của nhân vật được coi là “Mozart của thị trường chứng khoán” này đã khiến người ta quan tâm đến những điều ông nói rồi, đặc biệt khi ông nói về tài chính. Và những điều “thiên tài” nói không hề “ngu ngốc” như câu chuyện mỉa mai trên, điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm mới nhất của ông “Mô thức mới cho thị trường tài chính.”

“Triết học” của một “triết gia bất thành”

Soros như thường lệ không bắt đầu một cuốn sách bằng cách đi ngay vào vấn đề chính mà ông bắt đầu bằng triết học. Đó là điểm đặc biệt của ông. Soros xây dựng cho người đọc một bộ khung tư duy triết học sau đó mới dùng khuôn mẫu tư duy đó áp vào chủ đề chính, cụ thể trong cuốn sách này là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.

Khung tư duy của Soros vẫn là một lý thuyết mà ông gọi là “lý thuyết phản thân” (Bản tiếng Việt dịch là “phản hồi” nhưng tôi cho rằng từ “phản thân” hợp lý hơn khi nói đến một mối liên hệ mà một vật có với chính nó). Lý thuyết này cho rằng các hiện tượng xã hội có một cấu trúc khác so với hiện tượng tự nhiên. Trong hiện tượng tự nhiên, người quan sát và hiện tượng độc lập với nhau, diễn trình của hiện tượng không phụ thuộc vào người quan sát. Ví dụ, người quan sát có đứng ở đâu thì trái đất vẫn quay, họ không thể thay đổi thực tế đó.

Nhưng trong hiện tượng xã hội thì ngược lại, người quan sát trực tiếp tác động làm thay đổi hiện tượng chứ không chỉ đơn thuần là nhận thức chúng. Soros gọi đó là “chức năng thao túng”. Ví dụ, Karl Mark cho rằng lịch sử là một quá trình tiếp nối các hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa tư bản rồi đến chủ nghĩa cộng sản. Khi đó, ông không chỉ dừng lại ở việc nhận thức quá trình thay đổi mà thực chất đã tác động vào quá trình đó. Những người đi sau đã ứng dụng học thuyết của ông để xây dựng chủ nghĩa cộng sản ngay cả ở những quốc gia mà tư bản chủ nghĩa mới manh nha hoặc chưa định hình. Như vậy, con người không chỉ “nhận thức” hiện tượng xã hội mà còn “thao túng” để thay đổi chúng theo nhận thức của mình.

Nhưng nhận thức con người theo Soros luôn không hoàn hảo và “có thể sai” , thậm chí “triệt để sai”. Những nhận thức sai hay ngộ nhận này tác động làm thay đổi hiện tượng xã hội theo những con đường bất định, không đúng với những khung lý thuyết sẵn có mà chúng ta vẫn coi như chân lý. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế học là lý thuyết cân bằng: hành vi con người dựa trên cơ sở thông tin, nhận thức hoàn hảo cho nên giá cả thị trường luôn có xu hướng chạy về điểm cân bằng. Sự thực là nhận thức không hoàn hảo và luôn sai nên “thị trường rời khỏi trạng thái cân bằng với tần suất cũng ngang với chúng tiến lại trạng thái cân bằng ấy”. Khi ấy, thị trường không tuân theo quy luật cân bằng mà tuân theo quy luật bùng-vỡ (boom-bust). Giá cả tăng theo kiểu “bong bóng” rồi nổ tung dẫn tới sụp đổ, phá sản hàng loạt chứ không tự điều chỉnh cân bằng. Đó chính là khủng hoảng và theo Soros thì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính đặc biệt là cuộc khủng hoảng hiện nay đã diễn tiến theo mô thức đó.

Mô thức tài chính mới của một “kẻ đầu cơ”

Từ triết học, Soros chuyển bước sang lĩnh vực sở trường của mình là tài chính. Nhân vật được mệnh danh là “RobinHood tài chính” đã lý giải đâu là những ngộ nhận dẫn tới quá trình bùng-vỡ tạo ra cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay. Theo Soros, quá trình bùng-vỡ này không chỉ là hệ quả của một bong bóng bất động sản như lý giải của các nhà nghiên cứu khác mà còn của một siêu bong bóng kéo dài 25 năm qua. Mọi bong bóng đều bao gồm một xu thế chủ đạo và một ngộ nhận chủ đạo tương tác với nhau theo kiểu phản thân.

Như nhiều nhà quan sát khác, Soros cho rằng xuất phát điểm trực tiếp tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay là sự hình thành của bong bóng trên thị trường bất động sản Hoa Kỳ. Bong bóng này là kết quả của xu hướng chủ đạo là việc FED hạ lãi suất liên tục xuống còn 1% để kích thích nền kinh tế sau khi bong bóng công nghệ nổ năm 2000 và sự kiện 11 tháng 9 năm 2001. Lãi suất thấp cho tới giữa năm 2004 đã tạo ra bong bóng bất động sản quy mô lớn.

Tín dụng lỏng và rẻ đã khiến người đi vay “nô nức” vay còn kẻ cho vay thì tìm mọi cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay thế chấp. Người có “xếp hạng mức độ tín dụng kém cũng dễ dàng vay được tiền mua nhà” (các khoản vay dưới chuẩn). Những người có ít hoặc không có giấy tờ chứng minh thu nhập thậm chí không thu nhập, không nghề nghiệp, không tài sản, cũng có thể vay để mua nhà với tài sản thế chấp là chính căn nhà đó. Cầu nhiều tất giá nhà đất càng được đẩy lên theo kiểu “bong bóng”, dẫn tới hiện tượng đầu cơ tràn lan. Đa số “con bạc” trong cuộc chơi này đều ngộ nhận rằng: “giá trị của tài khoản cầm cố nhà đất đó không bị ảnh hưởng bởi sự sẵn lòng cho vay”. Giá vẫn lên và tất cả “vẫn phải đứng dậy và tiếp tục khiêu vũ” theo lời chủ tịch CitiBank Chuck Prince. Ngộ nhận rằng giá trị tài sản cầm cố không thể suy giảm với độ mở tín dụng như vậy đã khiến người ta lao vào một cuộc chơi bùng nổ rồi vỡ tan chứ không quay về điểm cân bằng.

Điểm khác biệt hơn trong lý giải của nhà tài chính đã 78 tuổi Soros là ở chỗ ông đã phóng chiếu một tầm nhìn rộng hơn về một bong bóng khác mà ông gọi là siêu bong bóng. Bong bóng này là sự phình đại tín dụng mang tính toàn cầu, bãi bỏ những quy định kiểm soát thị trường chặt chẽ và “nảy nòi” ra hàng loạt những “phương pháp và công cụ tài chính mới, tinh vi đễn nỗi giới điều tiết cũng mất luôn khả năng tính toán những rủi ro đi kèm.” Là “người trong chăn” của giới tài chính, Soros quá thấu hiểu và đưa ra những thông tin rất cụ thể về những công cụ tài chính phức tạp, đan xem nhau đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng dây chuyền ở phố Wall.

Các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản đã tối thiểu hóa rủi ro của họ bằng cách đóng gói chúng lại thành những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (CDOs). Các CDOs này được bán lại cho các nhà đầu tư và trở thành một “cơn cuồng” từ năm 2005. Hơn thế nữa, các quỹ đầu tư phòng hộ (hedge fund) lại bước vào thị trường bảo hiểm cho các CDOs này theo các hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDSs), một hình thức bảo hiểm trong trường hợp xảy ra vỡ nợ. Rồi khi giá trị của những CDOs bị nghi ngờ, các ngân hàng đầu tư lại đưa chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản và đưa vào những công cụ đầu tư kết cấu (SIVs). Các SIVs cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư này bằng cách phát hành những thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản… Các công cụ tài chính phức tạp mới được phát minh lại dựa trên một cơ sở thiếu lành mạnh là việc cho vay thế chấp địa ốc dưới chuẩn, tất cả đã dẫn tới sự sụp đổ của các “ông lớn” ở phố Wall.

Soros cho rằng, siêu bong bóng hình thành dựa trên xu hướng chủ đạo là những công cụ tín dụng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Ngộ nhận chủ đạo ở đây là sự tin cậy thái quá vào cơ chế thị trường. “Chủ nghĩa thị trường đã trở thành một tín điều thống trị Hoa Kỳ vàơ năm 1980 khi Ronald Reagan trở thành tổng thống Hoa Kỳ và Margaret Thatcher trở thành thủ tướng Anh.” Theo Soros thì chủ thuyết này sai lầm ở chỗ nghĩ rằng thị trường luôn hoàn hảo và trở về cân bằng. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại ở thị trường tài chính, nếu cứ để mặc cho thị trường phát triển với những phương pháp và công cụ tinh vi của nó thì tất yếu “sẽ đi tới những trạng thái cực đoan” như cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

George Soros đã khá “đáng yêu” khi thừa nhận rằng mặc dù lý thuyết của ông đã được công bố nhiều năm nhưng “không được giới hàn lâm coi là nghiêm túc”, và “chính tôi cũng nghi ngờ không hiểu những điều tôi nói có mới và ý nghĩa hay không?” Ảnh hưởng bởi triết học Popper, Soros khiêm tốn nhận định “chân lý tối hậu nằm ngoài tầm với của con người” và những suy nghĩ của ông “không phải là kết luận mà chỉ là sự khởi đầu.”

Khánh Duy

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2008

Anh Dũng em nổi quá, lên cả AFP




Diary aims to shed light on gay Vietnam

6 days ago

HANOI (AFP) — His name means bravery, and that's what it took for Nguyen Van Dung to talk about life in "the third world" -- a reference in Vietnam not to poverty but to the gay and lesbian community.

At age 41, he has decided to lay bare almost everything in a tell-all diary called "Bong," a slang term for homosexuals, written by two local journalists after more than 300 hours of taped interviews with him.

Dung is sure many people here won't like his memoir, which has triggered both praise and criticism for its often explicit recollections of sexual adventures and relationships with other men.

But Dung says it was high time to try to change attitudes in Vietnam.

"I don't want to be famous," he told AFP. "Being famous means being notorious, and the price you pay is high. But to achieve my goal, I had to sacrifice my privacy. It wasn't easy. It was a fierce struggle for me."

Very few gay people publicly come out in Vietnam. Homosexuality is still a largely taboo subject in the communist-governed, traditionally patriarchal society, long ruled by Confucian social mores and Buddhist beliefs.

The book had a modest first print run of 2,000 copies. But the fact that it was published at all is considered by many here a sign of changing attitudes and greater tolerance in this fast-changing country.

Many gay men, Dung says in the book, have struggled with deep shame for not meeting societal expectations -- marrying, building a family, taking over the house, caring for their ageing parents and producing male offspring.

"If you were born gay," he writes, "no matter whether you are a man or a woman, you were born at a bad time, on a bad day, in a bad month, in a bad year, under a very bad star."

In one section he speaks of the deep torment he and others have felt.

"If there is the so-called next life, I beg God to let me be an ordinary man or an ordinary woman, whatever gender it may be, but to be as normal as other people. It seems a very simple dream, but for me and my friends being normal is impossible."

The word "bong" can mean shadow or silhouette in Vietnamese and is sometimes used as a moderately derogatory term for homosexual males because it suggests they are mere "shadows of normal men."

Dung, with a tattooed arm and an unusually deep voice, was somewhat of a lady-killer in his 20s, according to friends, but eventually came out three years ago, having spent a lifetime hiding his sexuality.

"I could not pretend to love a woman just to maintain family happiness," he said. "It would have been torture. I cannot live like that. I cannot be another person, rather than myself. I cannot hurt a woman just to cover myself."

He explained in the diary that coming out, or publicly announcing being gay, requires much bravery in Vietnam, saying: "You must be very courageous to rob a beloved son from his parents and to give them back a distorted creature."

Dung started to work with a foreign-funded non-government group in 2005 and last year founded his own self-help gay group called "Green Pine," named after the hardy evergreen tree because it can survive in harsh conditions.

Dung, who used to work in a butcher shop, now devotes much of his time to advocacy work, informing gay and lesbian people about lifestyle and health issues including safe sex, and combating prejudice in the wider society.

"I used to think that I was ill," he writes.

"Only now can I really understand that gays are normal people in terms of health and intellect. We are only different in terms of our sexual tendency."

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2008

Những ngộ nhận về sách giả




Viết tiếp về sách giả kiềm xiền.

Những ngộ nhận về sách giả

Ở Việt Nam, người ta có thể mua sách ở bất kỳ đâu. Từ những siêu thị sách khang trạng của FAHASA, Phương Nam tới những nhà sách nhỏ sập xệ, từ những khu phố chuyên bán sách như Đinh Lễ đến những mẹt sách rải lẻ tẻ dọc đường vào buổi tối. Người dân cũng có thể mua với nhiều mức giá khác nhau từ đúng giá cho tới giảm 50%. Môi trường kinh doanh sách thập cẩm như vậy khiến không ít người ngộ nhận về chuyện sách giả sách thật. Sách thật sao lại rẻ thế, giảm tới 30-35%, chắc là sách giả?. Sách thật sao lại bán mẹt ven đường thế này, hay là sách giả? Mà sách giả thì đã sao, tốt quá, càng rẻ. Không ít người mua sách đã từng có suy nghĩ như vậy.

Thật ra, trước hết phải hiểu cho đúng sách giả là gì. Sách giả ở đây được định nghĩa là sách của một đơn vị xuất bản này nhưng bị người khác in lậu mà không xin phép. Đa số sách giả là những cuốn đang bán chạy, được in lậu với chất lượng xấu chỉ nhằm mục đích bán kiếm lời. Hoạt động mua bán sách giả diễn ra đan xen với mua bán sách thật nên khiến không ít người ngộ nhận.

Ngộ nhận thứ nhất: Sách ở khu vực Đinh Lễ Nguyễn Xí là sách… giả hoặc sách kém chất lượng, nhiều lỗi nên các đơn vị xuất bản mới phải bán giảm giá ở đó. Thật ra không phải vậy. Đa số sách ở khu vực đó là sách thật và xịn 100%. Chỉ có một thiểu số trong đó là sách giả và cũng chỉ có một vài cửa hàng ở đó có bán những đầu sách giả. Sở dĩ đa số sách ở đó giảm giá tới 25-30-35% là do chiết khấu của ngành sách rất cao, nhiều nhà sản xuất phải chiết khấu tới 40-45%. Do bán được nhiều sách nên đương nhiên các cửa hàng ở khu vực đó chỉ ăn chênh lệch ít.

Ngộ nhận thứ hai: Sách giả thì giá rẻ nên người tiêu dùng cũng được lợi. Hàng giả hàng nhái đương nhiên rẻ hơn hàng thật nhiều, ví dụ: phần mềm Vista cả trăm đô la nhưng mua đĩa sao chép chỉ 10 nghìn. Nhưng với mặt hàng sách thì không như vậy. Người đọc vẫn phải mua sách giả ở giá bằng hoặc ít hơn không nhiều so với sách thật, trong khi đó chất lượng in ấn của sách giả so với sách thật thì kém xa. Người hưởng lợi chỉ là người bán sách và những kẻ làm sách giả chứ không phải người tiêu dùng.

Ngộ nhận thứ ba: Sách giả cũng chẳng gây tác hại gì. Uống thuốc giả có thể chết người, uống rượu giả có thể ngộ độc chứ đọc sách giả không sao cả nếu không muốn nói là… tốt. Suy nghĩ này không đúng. Các đơn vị làm sách sống dựa vào những đầu sách bán chạy, nếu đầu sách này bị làm giả đương nhiên thiệt hại kinh tế là vô cùng lớn. Ngành sách trở thành một ngành kinh doanh kém hiệu quả, các đơn vị tham gia ngày càng ít và chắc chắn không thể phát triển nếu sách giả vẫn tràn lan. Điều này ảnh hưởng đến văn hóa đọc trong cộng đồng nói chung. Hậu quả vô hình khá lớn chứ không hề đơn giản.

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2008

Entry for May 25, 2008




Có bạn đang cần đọc bài này nên tôi post lại trên Blog. Bài này đã đăng ở trang mạng talawas.

http://www.phamthihoai.org/talawas/talaDB/showFile.php?res=9266&rb=0402

Lê Khánh Duy

Cuộc xung đột 3 lớp ở Trung Đông

Lời dẫn: Cuộc xung đột không kết thúc. Đó là cách người ta thường nói về cuộc xung đột giữa người Israel và người Palestine trên dải đất nhỏ bé nằm ở vị trí quan trọng bậc nhất, điểm nối giữa 3 châu lục: Châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Trực tiếp đặt chân đến nhiều địa điểm lịch sử trên miền đất nóng bỏng này, đồng thời trò chuyện với nhiều chính khách, học giả và người dân nơi đây, tôi đã có được một góc nhìn tổng quát và sâu sắc hơn vào lòng cuộc khủng hoảng nhiều lớp ở Trung Đông.

Thông tin về xung đột Trung Đông lúc nào cũng tràn ngập trên truyền hình và các mặt báo khắp thế giới. Đại sứ Israel tại Việt Nam đã nói vui với chúng tôi trước khi sang Trung Đông rằng: “Israel là quốc gia xuất khẩu tin tức chính trị lớn nhất trên thế giới.” Sự thực đúng là như vậy, không thể đếm hết những bài đưa tin và phân tích về cuộc khủng hoảng dai dẳng này. Nếu nhìn xa vào lịch sử thì có lẽ cuộc xung đột ấy đã kéo dài cả trăm năm rồi, từ khi những dòng người Do Thái trở về vùng đất tổ tiên của họ vào cuối thế kỷ 19 và vấp phải sự chống đối của những người Arập đang sống ở đó. Nhìn gần lại một chút thì cuộc xung đột được tính từ thời điểm năm 1947, khi Liên Hợp Quốc quyết định chia mảnh đất Palestine thành 2 phần: một cho nhà nước Do Thái và một cho nhà nước Ả Rập.

Mọi cuộc xung đột rồi cũng đi đến chấm dứt nếu tìm được một giải pháp. Nhưng tại sao máu của những người Do Thái và những người Arập đã đổ cả trăm năm rồi mà người ta vẫn không tìm thấy một giải pháp toàn vẹn? Đặt chân tới Trung Đông và có nhiều cuộc trao đổi với những người trong cuộc, tôi đã tìm thấy phần nào câu trả lời cho câu hỏi đó. Tôi nhận ra rằng cuộc xung đột hiện nay không chỉ là một cuộc xung đột mà là nhiều cuộc xung đột hoà trộn với nhau, không phải chỉ là một bi kịch mà là nhiều bi kịch chồng lớp lên nhau...

Trong bài viết này, tôi sẽ thử cắt lớp cuộc khủng hoảng Trung Đông thành 3 phần rõ ràng để tiện phân tích.

I: Tôn giáo – Dư âm vang vọng từ quá khứ

II: Lãnh thổ - Lời giải dở dang của hiện tại

III: Niềm tin – Hi vọng mong manh cho tương lai

Bài viết hoàn toàn dựa trên những suy nghĩ, cảm xúc và nhận định của một cá nhân trên những nẻo đường Trung Đông, không phải là bài đưa tin về sự kiện hay phân tích những diễn biến mới nhất của cuộc khủng hoảng. Bài viết cố gắng nhìn nhận cuộc khủng hoảng ấy trên bình diện tổng quát và theo những chiều kích mới. Tôi cố đặt mình vào địa vị của những người Do Thái và những người Arập để thấu hiểu cách hành xử của họ, để thấy được những khó khăn của họ trong việc tìm kiếm chiếc chìa khoá mở ra cánh cửa hoà bình. Chỉ khi nhìn nhận cuộc xung đột dưới góc nhìn nhân bản mới thấy hết được những thách thức hết sức nan giải, nhưng đồng thời cũng thấy được những cơ hội, những hi vọng cho tương lai của một Trung Đông bình ổn và thịnh vượng.

1. Tôn giáo – Dư âm vang vọng từ quá khứ

Đã biết đến Jerusalem và những tranh chấp hơn 2000 năm liên quan đến vùng đất thánh này qua những trang sách, nhưng khi bước chân vào thành cổ Jerusalem, tôi vẫn cảm thấy ngỡ ngàng. Mỗi người khi bước đến đây đều cảm thấy như đang trôi trong những giấc mơ. Jerusalem là thành phố của những hoài niệm, nơi mỗi viên đá trên mỗi con đường hay mỗi bức tường, đều như gợi nhắc về lịch sử hình thành cũng như xung đột của 3 tôn giáo lớn trên thế giới: Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo.

Nghịch lý Jerusalem

Thành cổ Jerusalem chia làm 4 khu chính: Khu của người Hồi giáo, Khu của người Cơ Đốc giáo, Khu người Do Thái và Khu người Armenia. Khu của người Do Thái là nơi có Bức tường Than Khóc nổi tiếng, phần còn sót lại của ngôi đền thiêng của đạo Do Thái đã bị đế chế La Mã phá huỷ vào năm 70 sau Công nguyên. Khu của người Cơ Đốc là nơi Chúa Jesus đã bị đóng đinh trên thập tự giá và phục sinh. Khu của người Hồi giáo còn đó nhà thờ Al – Aqsa chứa Vòm đá, nơi theo truyền thuyết thì nhà tiên tri Muhammad đã giẫm vào để bay lên trời nhận những lời khải huyền của Thượng đế.

Rõ ràng, mảnh đất thánh thiêng này là nơi khai sinh ra Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, cũng là mảnh đất rất quan trọng với người Hồi giáo chỉ sau Mecca và Medina. Toàn bộ thành phố nhỏ bé mà có tới 1072 nhà nguyện Do Thái, 59 nhà thờ Hồi giáo, 65 Thánh đường và 72 Tu viện. Không một tín đồ tôn giáo nào muốn thấy mảnh đất ấy nằm trong quyền kiểm soát của một tôn giáo khác. Máu đã đổ vì những cuộc tranh chấp tôn giáo ở đây quá nhiều. Lịch sử kể lại rằng toàn bộ Jerusalem đã ngập tràn trong máu khi quân Thập tự chinh Thiên chúa giáo tràn vào tàn sát thảm khốc hàng chục ngàn người Hồi giáo vào năm 1099. Phải chăng vì thế mà các nhà hiền triết Do Thái luôn nói rằng: “Thiên hạ có mười phần đẹp thì Jerusalem vinh dự có được chín, mười phần khổ đau thì Jerusalem chịu chín, mười phần thông thái thì Jerusalem giành lấy chín và mười phần ác độc thì Jerusalem vô phúc có đến chín.”

Lịch sử ngàn năm đã thế và cho đến bây giờ vẫn thế. Tôi bước đến Bức Tường Than Khóc của người Do Thái và nghe thấy râm ran những lời cầu nguyện từ hàng trăm tín đồ đạo Do Thái đứng đọc Kinh Thánh trước bức tường khổng lồ ấy. Tôi bước vào Khu mộ Chúa Jesus và bàng hoàng khi nghe những bài thánh ca trầm bổng và thanh thoát đến lạ kỳ. Tôi nhìn thấy nỗi buồn và cả những giọt nước mắt của những tín đồ Cơ Đốc khi trở ra từ khu Mộ Chúa, và tôi cũng đã nhìn thấy vẻ thành tâm của những người Do Thái khi úp đầu vào bức tường thánh thiêng kia để nguyện cầu. Người ta nói rằng ở đây có một đường dây nóng nối trực tiếp tới thiên đàng để mỗi lời nguyện cầu của các con chiên đều có thể đến được tai Chúa. Và có lẽ không một tín đồ nào thuộc bất kỳ tôn giáo nào lại không nguyện cầu cho một cuộc sống hoà bình và hạnh phúc. Nhưng nghịch lý thay, nơi luôn râm ran những lời khấn nguyện ấy lại chính là nơi không ngày nào không râm ran tiếng súng...

Đó chính là nghịch lý của Jerusalem, thành phố mà không ít người nói rằng luôn treo giữa trời và đất, giữa thiên đường và hoả ngục, giữa những giấc mơ và những cơn ác mộng. Từ núi Olive hay từ đỉnh của toà nhà YMCA, tôi nhìn toàn cảnh Jerusalem cổ kính với một màu vàng dịu nhẹ dưới ánh nắng mặt trời. 4 khu trong thành cổ hiện lên từ xa rất rõ ràng và tôi hiểu tại sao Jerusalem luôn là một vấn đề lớn trong bất kỳ cuộc đàm phán hoà bình nào ở Trung Đông. Tôi hiểu tại sao Liên Hợp Quốc lại phải quyết định đặt Jerusalem dưới quyền kiểm soát quốc tế khi phân chia lãnh thổ Palestine thành 2 nhà nước năm 1947. Tôi hiểu tại sao đã có những thời điểm gần như có thể đạt được một hiệp định hoà bình mà hai bên đều đã không nhân nhượng về vấn đề phân chia chủ quyền của miền đất thánh thiêng này, bởi miền đất ấy xác quyết những giá trị của cả những người Do Thái giáo và những người Hồi giáo.

Ý người hay ý Chúa?

Cuộc xung đột tôn giáo ở Trung Đông không chỉ là chuyện chủ quyền của vùng đất thiêng Jerusalem. Trong cuộc xung đột này, tôn giáo còn được viện ra để biện minh cho những động thái của hiện tại. Người Israel khẳng định rõ ràng rằng toàn lãnh thổ Israel ngày nay chính là vùng Đất Hứa mà Chúa đã hứa dành cho dân tộc họ qua những lời khải huyền với Abraham, ông tổ của người dân Do Thái. Nhà tiên tri Moses, người anh hùng đã cứu dân tộc Do Thái khỏi bị diệt chủng ở Ai Cập, cũng đã nhận được những lời dạy của Chúa, phải đưa dân tộc quay về miền Đất Hứa năm xưa. Tất cả những điều đó đã được ghi trong Kinh Thánh thiêng liêng của người Do Thái và không một thế lực nào có thể cản được ý Chúa. Cũng nhờ niềm tin như thế mà sau ngót hai nghìn năm lang thang khắp thế giới, người Do Thái vẫn không bị đồng hoá và sẵn sàng quay về mảnh đất thánh thiêng mà họ luôn chắc chắn rằng Chúa đã dành cho họ.

Còn đối với những người Hồi giáo, việc chấp nhận những người Do Thái trên mảnh đất này cũng thật khó khăn. Giám đốc chương trình nghiên cứu truyền thông Palestine của Israel Itamar Marcus trong một bài thuyết trình đã đưa ra một dẫn chứng làm tôi hơi bất ngờ. Ông nói rằng trong sách thánh Hadidth của người Hồi giáo có ghi rõ: “Thời điểm phục sinh sẽ không đến chừng nào những người Hồi giáo sẽ chiến đấu chống lại người Do Thái và giết chết họ.” Còn rất nhiều những dẫn chứng kiểu như vậy và ông Marcus khẳng định rằng người Hồi giáo coi người Do Thái không chỉ là kẻ thù đơn thuần mà còn là kẻ thù của Chúa. Điều đó biện minh cho những hành động đánh bom tự sát theo kiểu tử vì đạo của biết bao thanh niên Hồi giáo trẻ tuổi, họ sẵn sàng chết không chỉ vì quốc gia Palestine mà cao cả hơn thế, vì Chúa. Tôi không đồng ý hoàn toàn với quan điểm của ông Marcus khi cho rằng toàn bộ người Hồi giáo luôn có quan điểm coi Do Thái là kẻ thù của Chúa. Nhưng tôi cũng không thể phủ nhận rằng ít nhất thì một bộ phận cực đoan tôn giáo đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng này, và chính lực lượng đó đã “tôn giáo hoá” cuộc khủng hoảng, khiến cho nó trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.

Israel đã viện dẫn Kinh Thánh để khẳng định quyền trở về và thống trị miền đất Hứa của tổ tiên họ. Một bộ phận người Hồi giáo viện dẫn sách thánh để phủ nhận sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Không biết đó thực sự là ý Chúa hay chỉ là ý của con người. Nhưng sự thật là những dư âm tôn giáo từ ngàn năm về trước vẫn còn những vang vọng và ảnh hưởng lớn đến hiện tại. Ánh sáng của một Chúa duy nhất khúc xạ qua lăng kính tâm trí con người để trở thành các tôn giáo khác nhau. Và những luồng sáng khác nhau ấy lại tiếp tục được khúc xạ qua những lăng kính mới để làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng chưa hồi kết trên miền đất Thánh.

2. Lãnh thổ - Lời giải dở dang của hiện tại

Những cái tên như Khu Bờ Tây, Dải Gaza đã trở nên quá quen thuộc đối với bất kỳ ai kể cả những người không mấy quan tâm đến thời sự quốc tế. Hình thành một nhà nước Palestine độc lập trong hai vùng lãnh thổ ấy chưa bao giờ thực sự trở thành hiện thực. Những bước đi đầy kịch tính của lịch sử đã để lại một bài toán lãnh thổ vô cùng nan giải cho cả hai phía Israel và Palestine.

Từ trứng tráng thành trứng?

Xe đưa chúng tôi từ Jerusalem đến Biển Chết, con đường xuyên qua khu Bờ Tây. Con đường này nằm hoàn toàn trong quyền kiểm soát của người Israel. Phóng tầm mắt ra xa một chút, tôi nhìn thấy những khu định cư của người Do Thái với những ngôi nhà màu vàng rất đặc trưng. Thi thoảng, ở một vài điểm thích hợp, tôi có thể nhìn thấy khu của người Palestine. Chúng tôi đi trực thăng trên bầu trời khu Bờ Tây, từ trên cao nhìn xuống mới thấy vùng lãnh thổ này đan xen phức tạp như thế nào. Bờ Tây và vùng lãnh thổ thuộc Israel được ngăn cách bằng những hàng rào an ninh do chính phủ Israel dựng lên để ngăn chặn những kẻ đánh bom tự sát xâm nhập. Trong địa phận Bờ Tây, tôi cũng có thể nhìn thấy rất rõ những khu của người Palestine và cả những khu định cư Do Thái nằm tách biệt nhau, ở giữa có những con đuờng do người Israel xây dựng để kiểm soát khu vực này. Nếu nhìn vào một bản đồ địa chính trị, bất kỳ ai cũng có thể nhận ra ngay rằng những khu định cư Do Thái và những khu của người Arập nằm xen kẽ với nhau như tổ ong trên dải đất khô cằn mà người ta thường gọi là Bờ Tây ấy.

Xe đưa chúng tôi đến cả biên giới giữa Israel và dải Gaza. Người Do Thái đã rút hết toàn bộ các khu định cư với 7000 dân khỏi dải đất này từ năm 2005. Nhìn từ lãnh thổ Israel, dải đất Gaza hiện lên thật bình yên, nhưng từ đó, mỗi ngày, những tên lửa loại nhỏ của cả Hamas, Fatal và Jihad vẫn bắn đều đặn sang thị trấn nhỏ Sedrot miền Nam Israel. Tiến sỹ Ely Karmon thuộc Viện chống khủng bố Israel nói về một khả năng làm tôi hơi giật mình: Israel có thể xem xét việc tái chiếm Gaza nếu vẫn bị đe doạ từ khu vực này. Nếu khả năng đó xảy ra thì diễn biến của cuộc xung đột sẽ ngày càng trở nên phức tạp.

Tận mắt chứng kiến địa hình khu Bờ Tây và những quả tên lửa bắn sang từ Gaza, tôi càng hiểu tại sao bài toán lãnh thổ cho cả hai phía Israel và Palestine lại khó giải quyết đến như vậy. Nếu tư duy một cách đơn giản thì bất kỳ ai cũng có thể nói rằng, Israel đã chiếm đóng Bờ Tây và Gaza trong cuộc chiến sáu ngày năm 1967, vậy họ hãy rút toàn bộ các khu định cư, các trạm kiểm soát ra khỏi Bờ Tây như họ đã làm với Gaza. Thậm chí, có thể đặt vấn đề một cách kiên quyết hơn, Israel phải trả lại toàn bộ cả những vùng lãnh thổ chiếm được trên đất Israel ngày nay để đường biên giới giữa hai nhà nước đúng như đường biên giới mà Liên Hợp quốc đã định vào năm 1947.

Nhưng giữa thực tiễn trên địa hình với lý tưởng trên bàn giấy luôn là những khoảng cách, và việc đưa ra lời giải cho bài toán cộng sinh giữa 2 quốc gia Israel và Palestine ở 2 vùng lãnh thổ độc lập không hề đơn giản. Tôi nhớ những giọt nước mắt, những sự chống đối của 7000 dân Do Thái khi bị buộc phải rời khỏi nhà cửa của họ ở những khu định cư trên dải Gaza theo hoà ước Oslo năm 1993. Tất nhiên, những người dân ấy tiếc mảnh đất mà họ đang làm ăn và sinh sống, tiếc công sức bao năm xây dựng để rồi một ngày phải từ bỏ. Tất cả chúng ta đều tiếc nếu lâm vào hoàn cảnh của họ. Cần lưu ý là số người Do Thái ở Bờ Tây lớn hơn rất nhiều so với Gaza, tổng cộng có 200 nghìn người đang sống rải rác trong các khu định cư thuộc Bờ Tây. Cái giá mà họ phải trả, sự tiếc nuối mà họ và cả chính phủ Israel nữa phải chấp nhận sẽ lớn hơn rất nhiều. Đó là một phần lý do giải thích tại sao chính phủ Israel lại rất khó nhân nhượng trong việc rút hoàn toàn khỏi Bờ Tây. Cựu thủ tướng Israel Shimon Peres dùng một ẩn dụ rất hay để mô tả thực tế này: “Bạn có thể biến món trứng thành trứng tráng, nhưng quả là rất khó để biến món trứng tráng thành trứng. Những gì chúng ta đang cố làm là để biến món trứng tráng thành trứng.

Địa hình Bờ Tây cũng thực sự hổ lốn như một món trứng tráng vậy, và bây giờ để biến món trứng tráng ấy thành trứng cần có một nỗ lực rất lớn từ cả hai phía đặc biệt là Israel. Theo tôi, điều đó có thể thực hiện được. Nhưng vấn đề nan giải lại nằm ở một điểm khác, bởi còn có một lý do khác nữa khiến cho việc Israel rút hoàn toàn khỏi Bờ Tây là vô cùng khó khăn.

Thế lưỡng nan về an ninh của “kẻ đi bóp cổ”

Ngày chúng tôi đến dải Gaza, có 3 quả tên lửa được bắn vào lãnh thổ Israel từ đó, ngày hôm trước có 7 quả. Người dẫn đoàn kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về lịch sử xung đột cũng như việc rút các khu định cư Do Thái khỏi Gaza. Nhưng có một tình tiết này anh kể làm cho tôi khá bất ngờ: rằng kể từ sau khi Israel rút hết khỏi Gaza thì những đợt tấn công từ khu vực này lại tăng lên chứ không hề suy giảm. Tôi không có số liệu để kiểm chứng thông tin trên nhưng điều có thể khẳng định thì rõ rằng, Israel đứng trước một thế lưỡng nan về mặt an ninh khá rõ rệt. Họ không rút hết khỏi vùng lãnh thổ chiếm đóng thì chắc chắn họ sẽ còn là mục tiêu của các cuộc tấn công, nhưng họ rút hết thì ai đã dám chắc rằng họ sẽ có hoà bình?

Ngay cả một sử gia Palestine cũng phải thừa nhận tình trạng đó: “Israel đang nắm họng chúng tôi và làm chúng tôi nghẹt thở. Nhưng thật tệ hại, nó không thể buông ra.” Nghịch lý chính là ở chỗ đó, Israel chẳng khác nào một “người đi bóp cổ” người khác, nhưng nhưng vấn đề là “kẻ đi bóp cổ” ấy lại không dám buông ra vì họ sợ rằng “kẻ bị bóp cổ” sẽ vùng lên ngay sau đó. Rút hoàn toàn khỏi Bờ Tây đồng nghĩa với việc một nhà nước Palestine mạnh sẽ ở sát bên hông họ, biên giới phía Đông với các nước Arập yếu đi. Không lấy gì đảm bảo rằng phe Hamas hay Jihad sẽ không lấy đó làm nền tảng để tiếp tục những cuộc tấn công khủng bố vào lãnh thổ Do Thái, bởi đối với Hamas hay Jihad thì toàn bộ vùng lãnh thổ Israel hiện nay đều thuộc về họ.

Tôi không hề có ý định bênh vực nhà nước Do Thái. Tôi không đồng ý với nhiều cách ứng xử của họ từ sau cuộc chiến 1967 cho đến cuộc chiến gần đây với Li Băng. Đôi khi người Israel đã cực đoan, ứng xử cứng nhắc, mang nhiều tính chất vũ lực và cưỡng bức đối với người Palestine. Nhưng gác lại những gì thuộc về quá khứ thì tôi hiểu tình thế lưỡng nan hiện nay của họ. Tôi rất bất ngờ khi ngay cả một người phục vụ khuân đồ đạc cho tôi ở sân bay Israel cũng nói với tôi câu này: “Các anh là nhà báo đến đất nước chúng tôi, các anh hãy cố hiểu những gì chúng tôi nên làm và những gì chúng tôi buộc phải làm.

Tất cả những người ủng hộ hoà bình Trung Đông có lẽ đều hiểu rằng giải pháp đẹp nhất là Israel nên rút hoàn toàn khỏi Bờ Tây như họ đã làm với Gaza. Hai quốc gia tồn tại độc lập trong hai vùng lãnh thổ riêng biệt độc lập với nhau và như thế, bài toán cộng sinh giữa người Do Thái và người Arập có thể được giải. Tương lai nằm chính trong quá khứ, ít nhất là ở thời điểm trước cuộc chiến năm 1967. Tôi hoàn toàn ủng hộ một giải pháp lý tưởng như thế và Israel rõ ràng là nên làm như thế. Nhưng trong chính trị thì chưa bao giờ cái nên làm cũng là cái có thể làm và lời giải cho bài toán lãnh thổ riêng biệt giữa Israel và Palestine sẽ vẫn còn dang dở chờ tương lai giải quyết.

3. Niềm tin – Hi vọng mong manh cho tương lai

Bản chất cuộc xung đột hiện nay giữa người Israel và người Palestine thực chất là gì? Xung đột tôn giáo, xung đột lãnh thổ hay xung đột quốc tế giữa các quốc gia trong khu vực và các nước lớn khác? Có lẽ tất cả đều đúng, cuộc khủng hoảng hiện nay là sự hoà trộn của các yếu tố ấy. Nhưng khi đến Trung Đông tôi chợt nhận ra rằng, đằng sau đó còn có một cuộc xung đột khác khiến cho vấn đề trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Đó là cuộc khủng hoảng của niềm tin.

Nạn nhân của nạn nhân

Nhìn vào lịch sử của cả hai dân tộc Israel và Pelestine trong thế kỷ 20 này, người ta thấy một sự trùng hợp kỳ lạ. Người Do Thái là nạn nhân của Đức Quốc Xã, ai cũng biết rằng họ đã bị ngược đãi, bị làm nhục, bị sát hạt khủng khiếp thế nào trong suốt thời kỳ trước và trong Thế chiến 2. Không chỉ phát xít ngược đãi họ ở Đức, mà nhiều nước Châu Âu khác cũng kỳ thị với dân tộc Do Thái. Bước vào Bảo tàng tưởng niệm các nạn nhân của thảm hoạ diệt chủng Holocaust mới thấy hết cái khủng khiếp mà người Do Thái đã phải hứng chịu. Hơn 6 triệu người trong đó có 1,5 triệu là trẻ em đã chết bằng đủ mọi cách trong các trại tập trung, trong các lò thiêu, giữa những đường hào chôn người tập thể, trên những chuyến tàu hay trên những hành trình man rợ.

2000 ngàn năm không có tổ quốc và bị bạc đãi đã nung nấu quyết tâm của người Do Thái quay về với mảnh đất tổ tiên của họ. Và Liên Hợp Quốc cũng đã đưa ra một quyết định cá nhân tôi nghĩ rằng hợp lý khi cho dân tộc ấy một tổ quốc. Nhưng trớ trêu là ở chỗ, tổ quốc ấy lại nằm trên mảnh đất Palestine mà xung quanh là một vành đai Arập. Đó thực sự là một cuộc hôn nhân gượng ép. Sự trở về quê hương lập quốc của người Do Thái đã dẫn đến sự tha hương của những người Palestine đang sống trên mảnh đất này sau cuộc chiến năm 1948. 1 triệu người Palestine đã phải rời bỏ mảnh đất này ra đi, tới những nước láng giềng xung quanh, sống tạm bợ trong những túp lều rách nát, trong những trại tập trung nghèo khó. Sau cuộc chiến sáu ngày năm 1967, những người Palestine trong Khu Bờ Tây và Dải Gaza tiếp tục bị dồn ép, sống trong sự kìm kẹp của binh lính Israel. Ai có thể kể hết những nỗi khổ mà người Palestine đã phải chịu đựng? Thế cho nên không quá khó để lý giải phong trào quốc gia Palestine. Họ cũng như người Do Thái ngày trước, mất quê hương, bị chèn ép và tất nhiên phải vùng lên.

Israel là nạn nhân của Đức Quốc Xã và xét trên phương diện nào đó, Palestine lại là nạn nhân của nạn nhân kia. Điều quan trọng là rất nhiều người trong số họ không chịu thừa nhận nỗi đau của nhau. Tôi đã hỏi thẳng thắn một số nhà ngoại giao Israel rằng: “Sự phục quốc của người Do Thái đã dẫn đến sự mất tổ quốc của người Palestine, 1 triệu người Palestine tha hương kia liệu có phải là nạn nhân của chính người Israel?” Tôi nhận được những câu trả lời đại loại như: “Thực chất thì anh đừng quên rằng người Palestine chưa từng có tổ quốc, họ là người Arập sống trên vùng đất Palestine này mà thôi. Họ không có tổ quốc nên không có chuyện họ mất tổ quốc. Ngay sau cuộc chiến 1948 thì chính các quốc gia Arập như Ai Cập và Jordan cũng chiếm Gaza và Bờ Tây mà không trả nó cho một quốc gia Palestine nào cả. Quốc gia Palestine là một khái niệm mới chứ không phải đã có một quốc gia như vậy khi chúng tôi đến mảnh đất này.” Tôi không thể đồng ý với cách trả lời như vậy. Palestine có thể không có tổ quốc nhưng vẫn có quê hương, những Tel Aviv, Jaffa hiện nay của Israel chính là quê hương ngày xưa của họ. Không thể cứ bỏ qua một cách dửng dưng số phận của những người Palestine tha hương ấy.

Trong một bữa ăn tối thân mật với giáo sư sử học Trung Đông của trường Đại học Hebrew ở Jerusalem Amnon Cohen, tôi đã đem câu hỏi ấy trao đổi với ông. Ông cười nhìn tôi và hóm hỉnh nói rằng: “Không phải chỉ 1 triệu người Palestine phải tha hương đâu, 3 triệu đấy chứ.” Tôi hơi giật mình vì chẳng nhẽ mình lại nhớ nhầm. Vị giáo sư Do Thái uyên bác ấy cười nói tiếp: “Thật ra 1 triệu là ở thời điểm năm 1948, còn bây giờ, họ đã sinh con đẻ cái và con số ấy giờ đã lên khoảng 3 triệu rồi. Anh đã hỏi một câu rất hay và đó cũng chính là vấn đề mà chúng tôi phải thừa nhận, không thể chối cãi. Sự thực là như vậy. Nhưng hãy đặt mình vào địa vị Israel để hiểu thì anh sẽ thấy, bây giờ không lẽ để cho ngần ấy người trở về lại mảnh đất này và sống chung với người Do Thái chúng tôi. Sẽ đưa bao nhiều người về, 1 triệu, 2 triệu hay 3 triệu. Chỗ đâu cho họ trên mảnh đất này và tình hình an ninh rồi sẽ ra sao khi sống như vậy. Anh hãy cố hiểu thực tế đó.” Tôi thừa nhận là giáo sư Cohen có lý của ông, nỗi khổ của người Palestine có lỗi lớn của người Do Thái và không thể phủ nhận điều đó. Nhưng trong tình huống này thì người ta chỉ có thể giải quyết hiện tại bằng cách phác thảo một giải pháp cho tương lai chứ không phải bằng cách vẽ lại như những gì đã từng có trong quá khứ.

Vòng xoáy của khủng hoảng niềm tin

Lịch sử đã để lại những vết thương khó liền sẹo trên mảnh đất Trung Đông. Người Palestine uất hận vì mất quê hương đã đứng lên đòi phục quốc bằng nhiều cách trong đó có cả những cuộc tấn công khủng bố, và người Israel chống trả lại bằng những biện pháp cũng mang đầy tính chất vũ lực. Gần 60 năm bạo lực như thế đã trôi qua nếu chỉ tính từ thời điểm 1947. Khoảng thời gian đổ máu quá dài ấy đã gần như không còn làm cho cả hai dân tộc tin vào nhau được nữa. Trong mắt đa số người Palestine thì Israel là một đoàn quân Thập tự chinh mới. Còn đối với rất nhiều người Do Thái thì trong suốt một thời gian dài trước đây, quan niệm sống chung hoà bình với người Arập chỉ là một ảo vọng hoang đường. Niềm tin gần như đã tan vỡ sau 6 thập kỷ xung đột, người Israel không có hoà bình và người Palestine không có tổ quốc.

Tất nhiên, ở cả hai phía Israel và Palestine, không phải không có những lực lượng muốn thoả hiệp và nhân nhượng để khôi phục lại niềm tin giữa hai dân tộc. Không ít những chính khách và người dân bình thường có thiện ý muốn có được một giải pháp cộng sinh trong hoà bình giữa người Do Thái và người Arập. Nhưng điều đáng tiếc là không phải bất kỳ người Israel hay người Palestine nào cũng nghĩ đến nhân nhượng và thoả hiệp. Chính trường Palestine bị phân hoá giữa nhóm Fatal ôn hoà hơn và nhóm Hamas, Jihad với những tư tưởng mang nhiều tính chất cực đoan. Chính trường và dân chúng Israel cũng bị phân hoá sâu sắc, một bộ phận thiên tả mong muốn thoả hiệp trong khi phần còn lại thiên hữu kiên quyết đòi những giải pháp cứng rắn hơn nữa. Những bộ phận cực đoan đó đã biến cuộc khủng hoảng này trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Chính một tay súng cực đoan phe hữu người Israel đã bắn chết vị thủ tướng ôn hoà Yitzhak Rabin, một trong những kiến trúc sư chính của thoả ước Oslo năm 1993. Tôi nhớ mãi những trang sách xúc động mà tôi từng đọc về cái chết của ông. Ông ra đi khi vừa mới diễn thuyết để cổ xuý cho hoà bình với Palestine trước 100 ngàn người ở Tel Aviv. Trong ngực áo của vị chính khách ôn hoà ấy sau khi ông bị bắn 2 phát đạn, người ta tìm thấy một tờ giấy đẫm máu trên đó ghi lời “Bài ca hoà bình” mà ông vừa hát cùng với những người Do Thái khác trước đó chỉ vài phút. Tôi nhớ đến bài diễn thuyết của ông đọc ở Washington trong lễ ký kết Hoà ước Oslo: “Máu, máu chảy đã đủ rồi.” Nhưng đối với những kẻ cực đoan thì máu chưa bao giờ chảy đủ.

Những phe phái cực đoan ở cả hai phía càng đẩy cuộc khủng hoảng niềm tin giữa người Israel và người Palestine vào một vòng xoáy không kết thúc. Vũ lực và sự kìm kẹp của phe cứng rắn Israel kích động thêm tư tưởng khủng bố theo kiểu tử vì đạo của những lực lượng cực đoan Palestine. Và những vụ tấn công khủng bố liên tục sát hại thường dân vô tội ấy cũng khiến ngay cả những con bồ câu nhất trên chính trường Israel dễ trở thành diều hâu. Và khi ấy, một vòng xoáy bạo lực mới lại bắt đầu...

Đi tìm chiếc chìa khóa cuối cùng

Trong suốt hành trình Trung Đông, trong đầu tôi luôn vang lên một câu hỏi rằng thực chất thì cuộc khủng hoảng này rồi sẽ đi về đâu, liệu rồi sẽ có một sự đột phá nào không, có hay không một chiếc chìa khoá mở ra cánh cửa hoà bình sau hàng thập kỷ bạo lực và niềm tin tan vỡ? Tôi đem câu hỏi ấy trao đổi với nhiều học giả và nhà ngoại giao Israel. Và may mắn thay, qua những cuộc trao đổi ấy, tôi nhận ra rằng hoà bình không hoàn toàn là hão huyền và vẫn có những cơ hội để giải quyết hoặc ít ra là giảm thiểu tối đa cuộc khủng hoảng ấy.

Bạo lực rõ ràng chỉ đẻ ra bạo lực. Những vụ tấn công khủng bố, những vụ đánh bom tự sát, những vụ bắt cóc, ném đá triền miên đã khiến cho giờ đây, khá nhiều người Israel đã hiểu rằng cần phải sống chung hoà bình với người Palestine. Đó là con đường duy nhất. Trong những cuộc trò chuyện với các trí thức Israel, tôi đã nhận thấy những suy nghĩ đó. Israel đã sống bằng thanh gươm từ ngày lập quốc và bây giờ họ không thể tiếp tục như vậy. Giáo sư Cohen của Đại học Hebrew nói với tôi rằng: “Chính trị là nghệ thuật của cái có thể, là nghệ thuật của sự thoả hiệp. Anh không thể đòi được tất cả và anh cũng không bao giờ bị mất tất cả. Chúng ta cần phải thoả hiệp với nhau.” Trong một cuộc gặp với Giám đốc Quỹ phim Israel Katriel Schory, một người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt rất giống nhà bác học Do Thái Albert Einstein, nhà sản xuất phim ấy đã nói một câu làm tôi nhớ mãi: “Chính phủ Israel luôn mạo hiểm cho chiến tranh nhưng chưa thực sự mạo hiểm cho hoà bình.” Ông phê phán chính sách của chính phủ Israel và cho rằng cần nhân nhượng nhiều hơn nữa đối với những người Arập. Rõ ràng, cuộc xung đột này cũng như chuyện hai con dê qua cầu, thoả hiệp và nhân nhượng là con đường duy nhất nếu cả hai đều không muốn cùng rơi xuống nước.

Nhưng người ta chỉ có thể thoả hiệp với nhau, nhân nhượng với nhau nếu tin vào nhau. Không thể đàm phán khi súng vẫn nổ và máu vẫn đổ trên mảnh đất này. Tôi nhận thấy rằng, chiếc chìa khoá để mở ra cánh cửa hoà bình trước hết cũng lại nằm ở hai chữ Niềm tin rồi mới đến vấn đề tôn giáo hay lãnh thổ. Và tôi đã được chứng kiến những bước đi dù rất nhỏ để xây dựng niềm tin như thế.

Chúng tôi đến thăm toà nhà YMCA ở Jerusalem và có một cuộc trò chuyện với bà Amy Kronish, giám đốc chương trình cùng tồn tại hoà bình giữa người Arập và người Do Thái. Bà kể cho chúng tôi nghe về rất nhiều dự án trong chương trình. Điển hình nhất có thể kể đến dự án cho các thanh niên Arập và Do Thái từ 24 đến 30 tuổi cùng thảo luận chung với nhau trong vòng 8 tháng về quan điểm của mỗi bên xung quanh cuộc xung đột, dự án trao đổi văn hoá bằng cách cho thanh niên Arập và Do Thái tuổi từ 15 đến 17 đến thăm nhà nhau, dự án vườn trẻ nơi trẻ con của hai dân tộc cùng vui chơi và sinh sống. Bà Amy Kronish nói với chúng tôi rằng mục đích của những dự án như vậy là giúp cho giới trẻ của 2 dân tộc thấy được “bộ mặt nhân bản của kẻ thù”, rằng thực ra thì tất cả đều là con người với những xúc cảm rất con người, rằng mảnh đất này là “ngôi nhà chung của tất cả chúng ta”, rằng “những người mẹ Arập hoá ra cũng vào bếp nấu ăn và nghĩ như những người mẹ Do Thái”. Tôi không biết hiệu quả của những chương trình này đến đâu nhưng tôi nghĩ những chương trình như vậy đang đi đúng hướng. Mọi quyết định chính trị “từ trên xuống”, mọi bản hiệp ước hoà bình về phân chia lãnh thổ giữa hai nhà nước sẽ trở nên vô tác dụng nếu như “từ dưới lên”, người dân hai dân tộc này vẫn tiếp tục thù địch với nhau, không tin vào nhau.

Bất chấp những trở ngại gây ra bởi phe cực đoan bên phía Palestine hay phe cứng rắn bên phía Israel, vẫn cần bắc những cây cầu niềm tin qua những “hố bom” để lại sau bao tháng năm dài xung đột. Không thấu hiểu nỗi đau của nhau, không chấp nhận sự khác biệt của nhau thì cuộc khủng hoảng này sẽ vĩnh viễn không có hồi kết. Nếu như mỗi người Israel đặt mình vào địa vị của mỗi người Palestine thì sẽ thấy rằng nỗi đau mất tổ quốc của người Arập ngày nay cũng chẳng khác gì so với nỗi đau mất tổ quốc của họ ngày xưa. Tôi bước vào Bảo tàng tưởng niệm nạn nhân thảm họa Holocaust và nhìn thấy ngay ở những bước chân đầu tiên dòng chữ này: “Một quốc gia đích thực không chỉ được thể hiện ở những gì nó có thể làm được mà còn ở những gì nó có thể tha thứ.” Người Do Thái muốn nhắn nhủ thông điệp gì trong câu đó, phải chăng rằng họ đã tha thứ cho những tội lỗi khủng khiếp mà Đức Quốc Xã đã gây ra cho dân tộc họ, phải chăng họ đã gác lại quá khứ để hướng tới tương lai? Nếu như hôm nay những người Arập có thể tha thứ cho người Do Thái như thế, nếu như hôm nay những người Do Thái có thể tha thứ cho những người Arập như thế thì mọi vấn đề sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều.

Nhưng rõ ràng không hề dễ dàng để ngay lập tức có được sự tha thứ như vậy, không hề dễ dàng để quá khứ có thể được gác lại. Tôi rất đồng ý với ông Benny Dagan, giám đốc phòng quan hệ Trung Đông, thuộc Viện Nghiên cứu chính trị Bộ Ngoại giao Israel. Trong một bài thuyết trình về những thách thức và cơ hội của Israel trong cuộc xung đột này, ông nói rằng: “Không thể có một giải pháp trong một tương lai gần nhưng như thế không đồng nghĩa với việc không có hi vọng gì cho một viễn cảnh tốt của khu vực.” Nếu nhìn vào lịch sử 60 năm qua thì ta dễ thấy, tình hình hiện tại dù chưa khả quan nhưng đã tốt hơn nhiều so với những thập kỷ trước. Bối cảnh quốc tế thuận lợi hơn và quan hệ ngày càng cải thiện giữa Israel với một số quốc gia Arập láng giềng đang dần tạo tiền đề cho một hoà ước trọn vẹn trong tương lai.

Tôi rời Trung Đông với tâm trạng lạc quan hơn trước khi đặt chân đến đây. Nhìn thấy những khu của người Palestine khá khang trang ngay trong lòng lãnh thổ Israel, nhìn thấy khu chợ tấp nập của người Arập giữa thành cổ Jerusalem, tôi chợt nhận ra rằng giải pháp cùng tồn tại hoà bình là hoàn toàn có thể.

Trong những tháng ngày tuyệt vọng bị truy đuổi bởi phát xít Đức, một người Do Thái đã viết lên bức tường của căn nhà nơi anh ta lẩn trốn những dòng này này:

Tôi tin vào mặt trời dù mặt trời không toả sáng

Tôi tin vào tình yêu dù tình yêu tôi không cảm thấy được

Tôi tin vào Chúa dù Chúa vẫn lặng thinh.

Còn cá nhân tôi, qua hành trình Trung Đông ngắn ngủi của mình, tôi tin rằng Chúa sẽ không lặng thinh thêm nữa nếu như người Do Thái và người Arập thực sự trở nên ôn hoà hơn và học được cách tin vào nhau như họ đã từng học được cách tin vào Chúa...