Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

Hiến pháp có nên ghi “theo quy định của pháp luật”?




Hiến pháp tạo ra được thể chế pháp quyền là cách tốt để ngăn chặn các hành vi gây rối loạn và bảo vệ sự ổn định của đất nước.

Bản dự thảo Hiến pháp đang được Quốc hội đề nghị góp ý có rất nhiều đoạn khẳng định đi khẳng định lại những cụm từ như: “theo quy định của phát luật”, “hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật”, “do luật định”, “theo pháp luật Việt Nam”, “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Ví dụ điều 26 sửa đổi nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”

Có thể hiểu rằng những người soạn thảo bản Hiến pháp lo ngại những quyền được hiến định trong Hiến pháp như tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do hội họp có thể dẫn tới việc lạm dụng quá trớn, gây rối loạn xã hội, ảnh hưởng đến tính ổn định của bộ máy chính trị và đời sống nhân dân. Những lo ngại này có lý và không chỉ Việt Nam, chính phủ các nước khác đều có những lo ngại tương tự. Nhưng tại sao họ không nhất thiết phải ghi những cụm từ như trên trong Hiến pháp?

Thứ nhất, Hiến pháp tự thân nó đã là đạo luật cao nhất rồi, những điều khoản trong đó không phải ghi rằng theo “quy định của pháp luật” nữa, ghi như vậy tạo một mâu thuẫn: vậy giữa Hiến pháp và luật khác thì điều gì cao hơn? 

Thứ hai, Hiến pháp nào tạo ra một hệ thống pháp quyền thật sự tự nó sẽ khống chế được những biểu hiện cực đoan của tự do và giải quyết được sự mất ổn định xã hội.

Pháp quyền giúp ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của quyền tự do hiến định như thế nào? Thử lấy các trường hợp ở Mỹ ra làm ví dụ. Tòa án Mỹ liên tục phải đối mặt với vô vàn tình huống “đau đầu” khi công dân khởi kiện các lệnh cấm của chính quyền các cấp căn cứ vào Hiến pháp. Ví dụ: một công dân la hét phản đối vào lúc 2h sáng giữa khu dân cư đông đúc có nên được bảo vệ bởi tự do ngôn luận ghi trong Hiến pháp không? Một đoàn biểu tình chiếm tất cả các cửa ga tầu điện ngầm ngay giữa giờ cao điểm có nên được bảo vệ bởi quyền tự do biểu tình hiến định không? Hay thậm chí, có những tranh cãi pháp lý rất hài hước như: múa khỏa thân có nên được xếp vào quyền tự do biểu đạt, hay coi bói cho người khác có là một dạng thức ngôn luận cần tôn trọng trong Hiến pháp?

Hiến pháp chỉ ghi những quyền và nguyên lý chung nhất, nhưng sự giản đơn của Hiến pháp khi va đập với thực tế phức tạp của cuộc sống tạo nên những nghịch lý, những tình thế tiến thoái lưỡng nan như vậy. Câu trả lời của các tòa án Mỹ là: không thể có tự do nào là tự do tuyệt đối và những động thái kiểm soát của chính quyền để ngăn chặn các hành vi “tự do” nhưng gây hại là cần thiết. Tuy nhiên, các lệnh cấm đều phải tuân thủ những nguyên tắc chặt chẽ do tòa án định ra và chỉ có tòa án mới là nơi duy nhất có thẩm quyền quyết định ai đúng ai sai. Khi ra tòa, chính quyền chứ không phải người dân đi kiện sẽ phải giải trình tính hợp hiến của các động thái kiểm soát tự do.

Lấy tự do ngôn luận làm ví dụ. Các luật cấm liên quan tới ngôn luận khi ra tòa án Mỹ thường phải thỏa mãn 4 tiêu chí sau để được chấp nhận là hợp hiến.

Thứ nhất, luật cấm phải trung tính, nghĩa là đảm bảo không nhắm cụ thể vào một nhóm thông điệp nào đó. Ví dụ nếu muốn cấm phát tờ rơi trước trụ sở chính quyền, phải cấm tất cả các dạng thức tờ rơi chứ không chỉ cấm tờ rơi có nội dung chỉ trích thị trưởng.

Thứ hai, luật cấm không được ngăn chặn tuyệt đối. Ví dụ nếu muốn cấm biểu tình vì lo ngại ách tắc giao thông, chỉ có thể cấm biểu tình trên lòng đường, nếu cấm cả biểu tình trên vỉa hè có nghĩa là đã ngăn chặn tuyệt đối và những đạo luật như vậy thường ngay lập tức bị coi là vi hiến ở Mỹ.

Thứ ba, luật cấm phải được biện minh bằng những lợi ích quan trọng. Ví dụ, cấm biểu tình ngay trước cổng bệnh viện có thể được biện minh bằng lợi ích của bệnh nhân. Việc tụ tập ở đây có thể dẫn tới việc những xe cấp cứu không thể vào được kịp thời, dẫn tới tính mạng bệnh nhân bị đe dọa. Cấm biểu tình giữa quảng trường chắc chắn bị coi là vi hiến.

Thứ tư, luật cấm phải được thiết kế hẹp để chỉ triệu tiêu vừa đủ tác hại của hành vi. Ví dụ lệnh cấm ở bệnh viện trên sẽ bị tòa phủ nhận nếu không quy định cụ thể là cấm biểu tình trước cổng bệnh viên trong phạm vi bao nhiêu mét. 30 mét có thể được chấp nhận nhưng 50 mét là quá xa và lệnh cấm là vi hiến.

Quay về với cuộc biểu tình ở ga tàu điện ngầm vào giờ cao điểm gây trì hoãn giao thông công cộng. Chính quyền hoàn toàn có thể ra một lệnh cấm được công nhận là hợp hiến như sau: cấm mọi dạng thức biểu tình trong phạm vi ga tàu điện ngầm và cách các cửa ga 20 mét trong giờ cao điểm, từ 7h tới 9h sáng và từ 5h tới 7h chiều. Lệnh cấm ấy đủ linh hoạt để để không ngăn chặn mọi dạng thức biểu đạt và đủ hẹp để ngăn chặn tác hại lên giao thông công cộng.

4 nguyên tắc trên được xây dựng trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm từ vô số vụ kiện ở tòa án các cấp tại Hoa Kỳ. Nguyên tắc vừa bảo vệ vừa giới hạn quyền tự do ngôn luận được đảm bảo trong Hiến pháp. Nguyên tắc định hình ra đường biên giới của các hành vi ngôn luận, làm cơ sở tham chiếu để chính quyền biết mình có thể kiểm soát tới đâu và công dân biết mình được tự do tới đâu.

Pháp quyền là để cho tòa án có một quyền lực độc lập, kiểm soát và cân bằng các quyền lực khác. Một tòa án độc lập sẽ tự tìm thấy các nguyên tắc như trên để điều chỉnh sự quá đà của tự do. Tòa án mới là tiếng nói cuối cùng quyết định đúng sai. Cảnh sát, quân đội, thị trưởng và kể cả tổng thống cũng không thể can thiệp và tác động được vào sự công chính của quan tòa. Tòa án độc lập chính là nơi sẽ kiểm soát mọi hành vi gây mất ổn định, thay vì sử dụng lực lượng vũ trang.

Hiến pháp trao cho nhân dân các quyền cơ bản nhưng đồng thời cũng đã có tòa án độc lập để cân bằng lại những biểu hiện lạm quyền. Pháp quyền tự thân nó đã là một giải pháp ngăn chặn mất ổn định từ bên trong, hiệu quả và lặng lẽ, bởi không cần thêm một khẩu hiệu nào nữa.

Khánh Duy

Hiến pháp là mái nhà bảo vệ nhân dân



Hiến pháp không chỉ là câu chuyện xa vời của các chính khách nhằm thiếp lập thể chế quyền lực cho thượng tầng chính trị, hiến pháp ngược lại nếu được vận dụng nghiêm cẩn sẽ gắn sát sườn và bảo vệ trực tiếp quyền lợi của tất cả công dân. 

Một câu chuyện nhỏ về hiến pháp Hoa Kỳ nhưng liên quan tới Việt Nam để minh họa, vụ kiên Tinker v. Des Moines được phán quyết bởi Tòa tối cao Mỹ năm 1969. Chuyện nhỏ mà không nhỏ, bởi đây là một trong những vụ kiện tiêu biểu và nổi tiếng nhất trong lịch sử vận dụng Tu chính án số một của Hiến pháp Hoa Kỳ. Tu chính án số một được phát biểu như sau trong Hiến pháp Mỹ: “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào liên quan tới việc tổ chức tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận, báo chí hoặc quyền của dân chúng được hội họp một cách hòa bình, và quyền khiếu kiện Chính phủ nhằm thay đổi những thực tế đang gây bất bình.”


Câu chuyện bắt đầu vào một ngày tháng 12 năm 1965, một nhóm học sinh lớn tụ tập ở căn nhà của cậu Christopher Eckhardt, 16 tuổi ở tiểu bang Iowa. Họ quyết định thể hiện thái độ phản kháng đối với sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam bằng việc đeo băng tay màu đen khi tới trường trung học Des Moines nơi nhóm học sinh đang theo học. Ban giám hiệu trường Des Moines bằng cách nào đó đã biết trước được ý đồ của nhóm học sinh. Vào ngày 14 tháng 12, lãnh đạo ban giám hiệu nhóm họp và ra một điều luật mang tính ngăn chặn: buộc học sinh nào đeo băng đen tới trường phải gỡ bỏ, nếu không, họ sẽ bị cho thôi học cho tới khi nhận thức ra vấn đề.


Nhóm học sinh “nổi loạn” đã biết được chính sách mới của nhà trường, tuy thế, họ không lùi bước. Sáng 16 tháng 12 năm 1965, cô bé Mary Beth 13 tuổi và cậu Christopher Eckhardt 16 tuổi vẫn đeo băng đen tới trường để phản đối Mỹ đổ quân vào Việt Nam. Ngày hôm sau, cậu bé John Tinker 15 tuổi cũng thực hiện hành vi tương tự. Họ đều bị nhà trường đuổi về với lời đe dọa: khi nào không đeo băng tay nữa thì hãy tới trường. Nhóm “nổi loạn” lại tiếp tục thể hiện sự phản kháng bằng cách ở nhà cho tới hết năm. Còn hơn thế, thông qua cha mẹ, họ khởi kiện lệnh cấm đeo băng đen của nhà trường vì cho rằng điều luật ấy là vi hiến, xâm phạm tới quyền tự do ngôn luận được ghi trong Tu chính án số một của Hiến pháp.


Vụ án được Tòa án Quận xem xét và sau khi điều trần, tòa án bác bỏ cáo buộc của nhóm học sinh, với lý do: nhà trường có quyền hợp hiến trong việc ngăn chặn mọi hành vi gây rối loạn kỷ cương trường học. Nhóm học sinh tiếp tục kiện lên tòa án cao hơn nhưng cáo buộc tiếp tục bị bác. Tính chất điển hình của vụ kiện đã khiến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trực tiếp vào cuộc và quyết định tiếp nhận vụ án. Tại phiên xử ở tòa tối cao, 7 trong số 9 quan tòa đã đồng thuận và khẳng định: đeo băng đen trong trường hợp này hoàn toàn không thể gây ra và không liên quan gì tới việc gây rối, ngược lại, đeo băng đen là “ngôn luận thuần túy” được bảo vệ toàn diện trong Tu chính án số một của Hiến pháp Hoa Kỳ. Tòa phán: “Những nỗi sợ và lo lắng vô cớ về gây rối không thể đứng trên quyền tự do biểu đạt… Các trường công không phải là lãnh địa của độc quyền lãnh đạo. Các quan chức của trường không có quyền áp đặt tuyệt đối lên học sinh. Cả trường và học sinh đều là những thực thể nằm dưới Hiến pháp. Các học sinh đeo băng tay để biểu lộ sự bất đồng của họ đối với cuộc chiến Việt Nam cũng như ủng hộ việc ngừng bắn, các em muốn hành vi ấy được mọi người biết và từ đó làm theo… Trong trường hợp này, Hiến pháp không cho phép các quan chức nhà nước được khước từ quyền tự do biểu đạt ấy của các em”.


Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã lật ngược lại toàn bộ phán quyết của các tòa cấp thấp hơn và vận dụng Tu chính án số một trong Hiến pháp để bảo vệ các em học sinh. Điểm đặc biệt cần lưu ý trong vụ án này các em học sinh đã lặng lẽ đeo băng tay chứ không hề phát ngôn chống chính sách tham chiến của chính phủ. Tu chính án số một cũng chỉ quy định hết sức đơn sơ là sẽ bảo vệ “quyền tự do ngôn luận”. Nhưng tòa án tối cao đã vận dụng Hiến pháp hết sức linh hoạt khi cho rằng bản thân hành vi đeo băng tay cũng là một hình thức ngôn luận mang tính biểu tượng, bất kỳ hành vi nào phát đi một thông điệp và người tiếp nhận có thể hiểu thông điệp đó thì dù không nói ra lời vẫn được coi là ngôn luận. Tu chính án số một trong Hiến pháp không chỉ bảo vệ quyền nói mà cả quyền được lặng im, nếu sự im lặng ấy là thông điệp.


Vụ án Tinker v. Des Moines đã mở đường cho Tòa Tối cao cũng như các tòa cấp thấp hơn vận dụng Hiến pháp để bảo vệ người dân trong vô số vụ án sau này liên quan tới các hành vi mang tính biểu tượng. Nếu không có Hiến pháp bảo vệ, không có sự công minh của Tòa án tối cao, làn sóng biểu tình và các hình thức đa dạng phản đối chiến tranh Việt Nam trong nhân dân Hoa Kỳ không bao giờ dữ dội và mạnh mẽ đến như thế. Chính nhân dân Mỹ đã tạo ra một phần sức ép khiến chính phủ Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Họ làm được điều ấy bởi họ được chở che dưới mái nhà Hiến pháp.


Hiến pháp không phải là chuyện “trên giời” mà ngược lại, bảo vệ lợi ích “sát sườn” của mọi người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Cho dù có thể rất nhiều người hoàn toàn không biết gì về Hiến pháp và không nhận ra ảnh hưởng to lớn của nó, thì “nụ cười” hay “nước mắt” của họ trong tương lai sẽ bị tác động bởi Hiến pháp và quá trình thực thi nó. Cho dù ảnh hưởng của văn bản pháp lý cao nhất này lên mỗi cá thể sẽ khác nhau, có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nhưng số phận của toàn bộ đất nước và tất cả nhân dân không thể tách rời khỏi mái nhà chung trên đầu chúng ta, mái nhà mang tên “Hiến pháp”.


Khánh Duy