Xin lỗi mượn lời em Vàng Anh để thanh minh cho CNTB. Bài viết cũng đã lâu lâu từ tháng 4 rồi.
Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB trong giai đoạn này, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”
Mất niềm tin vào CNTB
Theo một điều tra mới nhất của công ty truyền thông Rasmussen Reports, chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng CNTB tốt hơn CNXH, 20% tin rằng CNXH tốt hơn và 27% không biết chắc chắn câu trả lời.
Mới chỉ tháng 12 năm 2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do, chỉ 15% tin rằng nền kinh tế do nhà nước quản lý tốt hơn và 15% không quyết định.
Ngay trên đất Mỹ, quê hương của những tư tưởng tự do, mà chỉ có phân nửa dân cư ủng hộ CNTB. Hơn thế nữa, trong vòng chỉ có vài tháng, tỉ lệ ủng hộ CNTB lại sụt giảm khá mạnh. Đó là những con số bất ngờ. Bỏ qua những sai lầm có thể có trong quá trình điều tra, có một sự thực là cuộc khủng hoảng hiện nay đã làm cho niềm tin vào CNTB bị lung lay.
Người dân Mỹ đang mệt mỏi vì khó khăn do khủng hoảng hay bực tức khi những đồng thuế của họ được đóng góp để cứu các nhà tư bản lớn? Có thể cả hai và có thể đó là những nguyên nhân khiến họ giảm niềm tin vào CNTB tự do, được coi là linh hồn đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ từ ngày lập quốc.
Người dân Mỹ và người dân nhiều quốc gia khác đang mất niềm tin vào CNTB. May thay chưa thấy ai nói nó “đang giãy chết” nhưng không ít người nghi ngờ tính hợp lý trong sự tồn tại của nó. Những nghi ngờ đó cần được xem xét lại. Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng như những cuộc khủng hoảng khác trong quá khứ là những biến động gây ra bởi những “lỗi” trong một thành phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhưng toàn bộ hệ thống đó xét như một tổng thể có cơ sở hợp lý để tồn tại.
Cuộc khủng hoảng của CNTB tài chính
Đặc điểm cơ bản của CNTB là nó phải vận hành trên cơ sở giá trị. Muốn tồn tại và có lợi nhuận, nhà tư bản phải sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ có giá trị thực sự đối với số đông quần chúng. Vô giá trị có nghĩa là không trao đổi ra tiền và đồng nghĩa với việc nhà tư bản phá sản… Thực tế đó khiến họ buộc phải tạo ra giá trị có lợi cho cộng đồng. Từ thị trường hàng hoá, dịch vụ tới nhân lực, nơi nơi quy luật giá trị chi phối
Adam Smith viết những dòng bất hủ: “Chính không phải do lòng tốt của người bán thịt, người sản xuất rượu bia hay người làm bánh mỳ mà chúng ta có được một bữa ăn ngon, mà do sự quan tâm của họ tới lợi ích riêng của họ.” Nhà tư bản có thể chỉ nghĩ tới lợi ích riêng nhưng xã hội thì luôn được lợi bởi sự điều chỉnh của nguyên tắc giá trị.
Nhà tư bản càng sản xuất ra những sản phẩm dịch vụ có giá trị thì anh ta càng có cơ hội bán được nhiều và bán được với giá cao. Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, luôn có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa giá cả và giá trị một cách tương đối. Càng đẹp, càng xịn, càng sang, càng tốt đương nhiên giá càng cao. Đó là nguyên tắc giá cả.
Thị trường hàng hóa, dịch vụ thì như vậy. Nhưng thị trường tài chính và bất động sản thì không phải lúc nào cũng tuân theo nguyên tắc đó. Hay nói cách khác là trong những thị trường này, mối tương quan giữa giá cả và giá trị nhiều khi trở nên vô nghĩa. Trong nhiều trường hợp, người mua kẻ bán trong những thị trường này tuân theo nguyên tắc kỳ vọng chứ không phải giá trị. Người mua sẵn sàng mua ở những mức giá trên trời hoàn toàn không tương xứng với giá trị thật miễn là họ kỳ vọng sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai. Đó chính là đầu cơ.
Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, giá càng tăng người mua càng giảm, giá càng hạ càng bán được nhiều. Nhưng với thị trường chứng khoán và bất động sản trong cơn sốt, giá càng cao người ta càng đổ xô đi mua nhiều. Đến khi thị trường hạ nhiệt, giá xuống thấp lại rất ít người mua, nhà đầu cơ chỉ nhanh nhanh bán thốc bán tháo để rút khỏi thị trường
Tóm lại, thị trường tài chính và bất động sản trong nhiều tình huống vận hành ngược với thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường. Nhìn lại các cuộc khủng hoảng của CNTB trong lịch sử, đặc biệt là cuộc khủng hoảng những năm 1930 và cuộc khủng hoảng hiện nay, người ta đều thấy khởi nguồn từ sự nổ tung của “bong bóng” đầu cơ trong thị trường bất động sản và chứng khoán.
Nếu chia nền kinh tế tư bản ra thành hai thành phần rõ rệt là nền kinh tế tư bản sản xuất (hàng hóa và dịch vụ) và nền kinh tế tư bản tài chính (công cụ tài chính phái sinh, chứng khoán, bất động sản) thì có thể thấy: bộ phận thứ nhất tuân theo nguyên tắc giá cả và giá trị nên khá ổn định và bền vững; bộ phận thứ hai luôn biến động trồi sụt bởi trong nhiều trường hợp vận hành theo nguyên tắc kỳ vọng.
Trong một nền kinh tế ngày càng có mối liên hệ dây chuyền chằng chịt, mỗi thành tố đều ảnh hưởng tới các thành tố khác. Bộ phận tài chính “ảo” sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của bộ phận sản xuất “thật”. Ngay từ những năm 1930, khi bộ phận tài chính chưa tinh vi và nền kinh tế cũng chưa có sự liên thông phức tạp như bây giờ, nhà kinh tế học Galbraith đã đưa ra kết luận đó trong cuốn sách Great Crash 1929 (bản tiếng Việt sắp ra mắt với tựa Ác mộng Đại khủng hoảng 1929): “Sự xoay tròn vô nghĩa của thị trường chứng khoán đã tác động đến giá nông sản, giá trị đất đai và sự hồi phục của tiền giấy và tài sản thế chấp. Chính trên thị trường chứng khoán, người ta không chỉ đánh bạc số tiền mình có mà đánh bạc cả sự thịnh vượng của một quốc gia.”
Ngày nay, những công cụ tài chính phái sinh được các nhà tư bản tài chính “phát minh” ngày càng nhiều đã tạo ra chất xúc tác cho cuộc khủng hoảng. Tín dụng lỏng tạo điều kiện cho đầu cơ bất động sản tràn lan thì châm ngòi cho cuộc khủng hoảng ấy. Câu chuyện khủng hoảng vẫn bắt nguồn từ sự lộng hành của nền kinh tế tài chính. Tài chính đã không còn là nơi cung cấp vốn cho sản xuất đơn thuần nữa mà cũng tự “sản xuất” ra những “sản phẩm” để kinh doanh. Những sản phẩm vô giá trị như “rác” cũng được bán với giá của “vàng” cho tới một ngày giấc mộng qua đi thì tất cả bỗng sụp đổ.
Cuộc khủng hoảng được châm ngòi từ nền kinh tế tài chính, mà nền kinh tế đó thường xuyên bất tuân theo quy luật giá trị và giá cả thông thường. Khi nền kinh tế tài chính “hắt hơi” thì nền kinh tế sản xuất cũng “sổ mũi” hay nói theo Galbraith thì “kẻ yếu không chỉ hủy hoại những kẻ yếu khác mà còn làm mối mọt kẻ mạnh”.
Vì thế, nền kinh tế tài chính ‘ảo” mới là tác nhân của khủng hoảng, không phải nền sản xuất ‘thật”. Quy luật kỳ vọng mới tạo ra khủng hoảng chứ không phải quy luật giá trị và giá cả hợp lý của CNTB. Vậy nên, kết tội CNTB cho những đổ vỡ hiện nay là thái quá, quay về với những mô hình nhà nước điều tiết sản xuất kinh doanh càng nguy hiểm. Cái cần điều tiết mạnh hơn là bộ phận kinh tế tài chính chứ không phải toàn bộ nền kinh tế tư bản nơi bộ phận sản xuất hàng hóa và dịch vụ vẫn đóng vai trò chủ lực.
Bộ phận kinh tế tài chính đương nhiên cũng là một phần quan trọng của bức tranh kinh tế tư bản, phần đó có những lỗi lầm mà CNTB chưa giải quyết được. Tuy nhiên, đó là những lỗi lầm của một thành phần chứ không phải toàn thể CNBT, đó là những sai sót không thuộc về bản chất hợp lý là quy luật giá trị - giá cả của CNTB. Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”
Khánh Duy
Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB trong giai đoạn này, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”
Mất niềm tin vào CNTB
Theo một điều tra mới nhất của công ty truyền thông Rasmussen Reports, chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng CNTB tốt hơn CNXH, 20% tin rằng CNXH tốt hơn và 27% không biết chắc chắn câu trả lời.
Mới chỉ tháng 12 năm 2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do, chỉ 15% tin rằng nền kinh tế do nhà nước quản lý tốt hơn và 15% không quyết định.
Ngay trên đất Mỹ, quê hương của những tư tưởng tự do, mà chỉ có phân nửa dân cư ủng hộ CNTB. Hơn thế nữa, trong vòng chỉ có vài tháng, tỉ lệ ủng hộ CNTB lại sụt giảm khá mạnh. Đó là những con số bất ngờ. Bỏ qua những sai lầm có thể có trong quá trình điều tra, có một sự thực là cuộc khủng hoảng hiện nay đã làm cho niềm tin vào CNTB bị lung lay.
Người dân Mỹ đang mệt mỏi vì khó khăn do khủng hoảng hay bực tức khi những đồng thuế của họ được đóng góp để cứu các nhà tư bản lớn? Có thể cả hai và có thể đó là những nguyên nhân khiến họ giảm niềm tin vào CNTB tự do, được coi là linh hồn đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ từ ngày lập quốc.
Người dân Mỹ và người dân nhiều quốc gia khác đang mất niềm tin vào CNTB. May thay chưa thấy ai nói nó “đang giãy chết” nhưng không ít người nghi ngờ tính hợp lý trong sự tồn tại của nó. Những nghi ngờ đó cần được xem xét lại. Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng như những cuộc khủng hoảng khác trong quá khứ là những biến động gây ra bởi những “lỗi” trong một thành phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhưng toàn bộ hệ thống đó xét như một tổng thể có cơ sở hợp lý để tồn tại.
Cuộc khủng hoảng của CNTB tài chính
Đặc điểm cơ bản của CNTB là nó phải vận hành trên cơ sở giá trị. Muốn tồn tại và có lợi nhuận, nhà tư bản phải sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ có giá trị thực sự đối với số đông quần chúng. Vô giá trị có nghĩa là không trao đổi ra tiền và đồng nghĩa với việc nhà tư bản phá sản… Thực tế đó khiến họ buộc phải tạo ra giá trị có lợi cho cộng đồng. Từ thị trường hàng hoá, dịch vụ tới nhân lực, nơi nơi quy luật giá trị chi phối
Adam Smith viết những dòng bất hủ: “Chính không phải do lòng tốt của người bán thịt, người sản xuất rượu bia hay người làm bánh mỳ mà chúng ta có được một bữa ăn ngon, mà do sự quan tâm của họ tới lợi ích riêng của họ.” Nhà tư bản có thể chỉ nghĩ tới lợi ích riêng nhưng xã hội thì luôn được lợi bởi sự điều chỉnh của nguyên tắc giá trị.
Nhà tư bản càng sản xuất ra những sản phẩm dịch vụ có giá trị thì anh ta càng có cơ hội bán được nhiều và bán được với giá cao. Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, luôn có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa giá cả và giá trị một cách tương đối. Càng đẹp, càng xịn, càng sang, càng tốt đương nhiên giá càng cao. Đó là nguyên tắc giá cả.
Thị trường hàng hóa, dịch vụ thì như vậy. Nhưng thị trường tài chính và bất động sản thì không phải lúc nào cũng tuân theo nguyên tắc đó. Hay nói cách khác là trong những thị trường này, mối tương quan giữa giá cả và giá trị nhiều khi trở nên vô nghĩa. Trong nhiều trường hợp, người mua kẻ bán trong những thị trường này tuân theo nguyên tắc kỳ vọng chứ không phải giá trị. Người mua sẵn sàng mua ở những mức giá trên trời hoàn toàn không tương xứng với giá trị thật miễn là họ kỳ vọng sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai. Đó chính là đầu cơ.
Trong thị trường hàng hóa dịch vụ, giá càng tăng người mua càng giảm, giá càng hạ càng bán được nhiều. Nhưng với thị trường chứng khoán và bất động sản trong cơn sốt, giá càng cao người ta càng đổ xô đi mua nhiều. Đến khi thị trường hạ nhiệt, giá xuống thấp lại rất ít người mua, nhà đầu cơ chỉ nhanh nhanh bán thốc bán tháo để rút khỏi thị trường
Tóm lại, thị trường tài chính và bất động sản trong nhiều tình huống vận hành ngược với thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường. Nhìn lại các cuộc khủng hoảng của CNTB trong lịch sử, đặc biệt là cuộc khủng hoảng những năm 1930 và cuộc khủng hoảng hiện nay, người ta đều thấy khởi nguồn từ sự nổ tung của “bong bóng” đầu cơ trong thị trường bất động sản và chứng khoán.
Nếu chia nền kinh tế tư bản ra thành hai thành phần rõ rệt là nền kinh tế tư bản sản xuất (hàng hóa và dịch vụ) và nền kinh tế tư bản tài chính (công cụ tài chính phái sinh, chứng khoán, bất động sản) thì có thể thấy: bộ phận thứ nhất tuân theo nguyên tắc giá cả và giá trị nên khá ổn định và bền vững; bộ phận thứ hai luôn biến động trồi sụt bởi trong nhiều trường hợp vận hành theo nguyên tắc kỳ vọng.
Trong một nền kinh tế ngày càng có mối liên hệ dây chuyền chằng chịt, mỗi thành tố đều ảnh hưởng tới các thành tố khác. Bộ phận tài chính “ảo” sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của bộ phận sản xuất “thật”. Ngay từ những năm 1930, khi bộ phận tài chính chưa tinh vi và nền kinh tế cũng chưa có sự liên thông phức tạp như bây giờ, nhà kinh tế học Galbraith đã đưa ra kết luận đó trong cuốn sách Great Crash 1929 (bản tiếng Việt sắp ra mắt với tựa Ác mộng Đại khủng hoảng 1929): “Sự xoay tròn vô nghĩa của thị trường chứng khoán đã tác động đến giá nông sản, giá trị đất đai và sự hồi phục của tiền giấy và tài sản thế chấp. Chính trên thị trường chứng khoán, người ta không chỉ đánh bạc số tiền mình có mà đánh bạc cả sự thịnh vượng của một quốc gia.”
Ngày nay, những công cụ tài chính phái sinh được các nhà tư bản tài chính “phát minh” ngày càng nhiều đã tạo ra chất xúc tác cho cuộc khủng hoảng. Tín dụng lỏng tạo điều kiện cho đầu cơ bất động sản tràn lan thì châm ngòi cho cuộc khủng hoảng ấy. Câu chuyện khủng hoảng vẫn bắt nguồn từ sự lộng hành của nền kinh tế tài chính. Tài chính đã không còn là nơi cung cấp vốn cho sản xuất đơn thuần nữa mà cũng tự “sản xuất” ra những “sản phẩm” để kinh doanh. Những sản phẩm vô giá trị như “rác” cũng được bán với giá của “vàng” cho tới một ngày giấc mộng qua đi thì tất cả bỗng sụp đổ.
Cuộc khủng hoảng được châm ngòi từ nền kinh tế tài chính, mà nền kinh tế đó thường xuyên bất tuân theo quy luật giá trị và giá cả thông thường. Khi nền kinh tế tài chính “hắt hơi” thì nền kinh tế sản xuất cũng “sổ mũi” hay nói theo Galbraith thì “kẻ yếu không chỉ hủy hoại những kẻ yếu khác mà còn làm mối mọt kẻ mạnh”.
Vì thế, nền kinh tế tài chính ‘ảo” mới là tác nhân của khủng hoảng, không phải nền sản xuất ‘thật”. Quy luật kỳ vọng mới tạo ra khủng hoảng chứ không phải quy luật giá trị và giá cả hợp lý của CNTB. Vậy nên, kết tội CNTB cho những đổ vỡ hiện nay là thái quá, quay về với những mô hình nhà nước điều tiết sản xuất kinh doanh càng nguy hiểm. Cái cần điều tiết mạnh hơn là bộ phận kinh tế tài chính chứ không phải toàn bộ nền kinh tế tư bản nơi bộ phận sản xuất hàng hóa và dịch vụ vẫn đóng vai trò chủ lực.
Bộ phận kinh tế tài chính đương nhiên cũng là một phần quan trọng của bức tranh kinh tế tư bản, phần đó có những lỗi lầm mà CNTB chưa giải quyết được. Tuy nhiên, đó là những lỗi lầm của một thành phần chứ không phải toàn thể CNBT, đó là những sai sót không thuộc về bản chất hợp lý là quy luật giá trị - giá cả của CNTB. Nếu Adam Smith có sống lại để thanh minh cho CNTB, có lẽ ông sẽ nói: “CNTB có lỗi nhưng không có tội…”
Khánh Duy